21. Thể thơ Ðường Luật:
Thơ Ðường Luật
xuất hiện vào đời nhà Ðường bên Trung Quốc (620 - 905). Ðường Luật là thể thơ
có vần, đối nhau và hạn định bằng trắc trong thơ rất chặt chẽ. Bằng trắc phải
theo đúng luật, sai là thất luật.
Khởi luật:
Tiếng thứ 2 câu
đầu gieo vần bằng thì bài thơ đó là luật bằng; tiếng thứ 2 gieo vần trắc thì
bài thơ đó là luật trắc. Theo bằng trắc như sau:
*Luật Bằng:
Theo bảng thanh
điệu như sau:
b b tr tr
b >Vần
tr tr tr b b
>nhau
tr tr b b tr
> Ðối
b b tr tr b >
nhau
b b b tr tr >
Ðối
tr tr tr b b
> nhau
tr tr b b tr
b b tr tr b
*Luật Trắc:
tr tr tr b b > Vần
b b tr tr b >
nhau
b b b tr tr >
Ðối
tr tr tr b b
> nhau
tr tr b b tr
> Ðối
b b tr tr b >
nhau
b b b tr tr
tr tr tr b tr
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
Thất ngôn 8
câu 5 vần.
*Luật Bằng:
b b tr tr
tr b b > Vần
tr tr b b tr tr
b > nhau
tr tr b b b tr
tr > Ðối
b b tr tr tr b b
> nhau
b b tr tr b b tr
> Ðối
tr tr b b tr tr
b > nhau
tr tr b b b tr
tr
b b tr tr tr b b
* Luật Trắc:
tr tr b b
tr tr b > Vần
b b tr tr tr b b
> nhau
b b tr tr b b tr
> Ðối
tr tr b b tr tr
b > nhau
tr tr b b b tr
tr > Ðối
b b tr tr tr b b
> nhau
b b tr tr b b tr
tr tr b b tr tr
b.
Niêm trong
thơ Ðường luật:
Niêm của thơ
Ðường luật tính từ tiếng thứ 2 câu lập thành để dễ nhớ là:> Nhất = bát, nhị = tam, tứ = ngũ, lục = thất.
> Nghĩa là:
+ Tiếng thứ nhì câu thứ nhất niêm với tiếng thứ nhì
câu thứ tám.
+ Tiếng thứ nhì câu thứ hai niêm với tiếng nhì
câu thứ ba.
+ Tiếng thứ nhì câu thứ tư niêm với tiếng thứ nhì
câu thứ năm.
+ Tiếng thứ nhì câu thứ sáu niêm với tiếng thứ nhì
câu thứ bảy.
+ Câu thứ nhất với câu thứ tám bằng - trắc giống hệt nhau là hợp
niêm, nếu không giống nhau về bằng - trắc là thất niêm.
Cách gieo vần:
Gieo
vần có hai cách: hạn vận và phóng vận. Hạn vận là hạn theo
vận gì người làm thơ phải theo vận ấy mà gieo, không được làm vần khác, chỉ gieo
một vần và chỉ gieo vần bằng, vần bằng nằm ở các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Riêng chữ
cuối ở câu thứ nhất, đặc biệt ở thể ngũ ngôn, có thể gieo vần hay không cũng
được.
Phóng vận:
Là tuỳ ý nhà thơ
muốn làm vần gì cũng được.
Cách đặt câu:
Cách đặt câu
phải theo như sau: Câu đầu gọi
là Phá – “Nghĩa là mở ra”. Câu
thứ nhì, gọi là Thừa - Nghĩa là theo ý câu Phá mà làm.
Câu thứ ba, thứ tư gọi là Thực hay Lĩnh - là
giải nghĩa đầu bài. Hai câu thứ năm
- sáu gọi là - Luận hay Cảnh - Nghĩa là bày tỏ ý kiến, tình cảm của người làm thơ. Hai câu
bảy và tám là câu kết.
Thơ Ðường luật
du nhập vào Việt Nam từ bao giờ không mấy sách nói rõ, chỉ biết do thượng thư
bộ công đời nhà trần là Hàn Thuyên - tên chính của ông là Nguyễn Thuyên, người
tỉnh Phú Thọ. Không rõ năm sinh, năm mất của ông. Tương truyền có cá sấu xuất
hiện ở sông Lô, ông làm bài văn tế ném xuống sông đuổi, cá sấu bỏ đi. Việc làm
của ông giống như Hán Dũ đời Ðường nên vua Trần khen ban cho ông theo họ Hàn.
Ông là người
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
đầu tiên ở nước
ta dùng luật thơ Ðường vào thơ nôm, nên đời sau gọi thơ nôm làm theo luật Ðường
là thơ Hàn Luật, và các cụ nhà ta đã không rập khuôn theo công thức quá gò bó
của Ðường luật, bởi tiếng Việt vần điệu uyển chuyển, luyến láy biến ảo phóng
túng, mà theo sự gò bó ấy sẽ mất vẻ tự nhiên, nên sinh ra lệ “bất luận”: “Nhất,
tam, ngũ bất luận; nhị tứ, lục phân minh”. Nghĩa là: cùng trong một câu, tiếng
thứ nhất, tiếng thứ ba, tiếng thứ năm gieo vần trắc hay bằng cũng được, còn tiếng thứ hai thứ sáu là thanh bằng thì tiếng thứ tư phải là thanh trắc (và ngược lại).
Thí dụ:
Vườn Bách Thú
Dưới đám (tr) cây
xanh (b) một dãy (tr) chuồng,
Mỗi chuồng
(b) nuôi một (tr) giống chim (b) muông.
Khù khì vua cọp no nằm ngủ,
Nháo nhác dân hươu đói chạy cuồng.
Lũ khỉ tranh ăn bày lắm chuyện,
Ðàn chim nỏ mỏ hót ra tuồng.
Lại còn một bọn: vài anh gấu,
Hống hách tranh nhau một cục xương!
(KD)
Các Bài Mẫu.
Ngũ ngôn tám
câu 5 vần.
Hạn Vận:
Mặt Trăng
Vằng vặc bóng
thuyền quyên>Vần
Mây quang gió
bốn bên >nhau
Nể cho trời
đất trắng >Ðối
Quét sạch núi
sông đen >nhau
Có khuyết
nhưng tròn mãi >Ðối
Tuy già vẫn
trẻ lên >nhau
Mảnh gương
chung thế giới
Soi rõ mặt
hay hèn.
( K.D)
Thất ngôn tám
câu 5 vần.
Phóng Vận:
Thăng Long hoài cổ
Tạo hoá gây
chi cuộc hí trường > Vần
Bấy nay thấm
thoát mấy tinh sương > nhau
Lối xưa xe
ngựa hồn thu thảo > Ðối
Nền cũ lâu
đài bóng tịch dương > nhau
Ðá vẫn trơ
gan cùng tuế nguyệt > Ðối
Nước còn cau
mặt với tang thương > nhau
Nghìn thu
gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy
người đây luống đoạn trường.
(Bà Huyện Thanh Quan)
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
Ngũ ngôn tám
câu 4 vần:
Thăm Ðạo sĩ trên núi
Lý Bạch
Chó sủa trong
tiếng suối
Hoa đào mưa
đượm tươi
Hươu rừng
thấp thoáng bóng >Ðối
Chuông ngọ
lặng im hơi
>nhau.
Thác bạc toé
đầu núi >Ðối
Trúc xanh
chen màu trời >
nhau.
Ði đâu ai có
biết
Buồn tựa gốc
thông chơi.
(Trúc Khê dịch)
Thất ngôn tám
câu 4 vần:
Lờ đờ mặt
trăng đời không bạn
Lẩn quất đầu
xanh tuổi đã già
Sóng nổi
không chìm nên mến nước
Người tan
muốn hợp phải lo nhà
Rạp tuồng Vân
Cẩu còn đông khách
Gác túi càn
khôn đủ chứa ta
Hơn kém cõi
đời vinh với nhục
Nhục vinh rồi
cũng hoá ra ma.
( K.D)
Ðường luật, một
thể thơ gò bó rất khó chịu cho người làm thơ non tay. Một số người muốn phá
cách nhưng đều thất bại. Riêng bà chúa thơ nôm họ Hồ có 2 trường hợp phá cách
lại chấp nhận được. Ở bài “Sư hổ mang” câu mở đầu chỉ có 6 tiếng: -“Chẳng
phải Ngô, chẳng phải ta”, (đúng luật phải 7 tiếng). Bài “Ðèo ba dội”
phá cánh cũng ở câu mở đầu: - “Một đèo, một đèo, lại một
đèo” (nhị, tứ, lục không phân minh), (theo nhà giáo, nhà thơ Thân Ðức Thi).
Ðến Tản Ðà, người khơi nguồn đầu tiên cho phong trào thơ Mới. Và chính ông đã
tuyên ngôn: “Ðờn là đờn, thơ là thơ. Thơ thời có chữ, đờn có tơ. Nếu không
phá cách vứt điệu luật, khó cho thiên hạ đến bao giờ”. Một mặt Tản Ðà vẫn
tuân thủ những luật lệ của thơ Ðường trong cách đặt câu, gieo vần; một mặt ông bỏ bớt
phương thức đối tương xứng ở câu thực
và câu luận cho việc phóng bút
được tự nhiên. Thí dụ:
Ðêm suông phủ vĩnh
- Ðêm suông
vô số cái suông suồng
Suông rượu,
suông tình, bạn cũng suông.
Một bức mành
con coi ngán nỗi
Một câu đối
mảnh nghĩ dơ tuồng.
Một vầng
trăng khuất đi mà đứng
Một lá mành
treo cuốn lại buông.
Ngồi hết đêm
suông, suông chẳng hết
Chùa ai xa
điểm mấy hồi chuông.
(Tản Ðà, Khối tình con 1- 1916)
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
Hoặc đối gượng:
Con gái hái dâu
Anh có yêu em đứng lại mà
Ở đây vắng vẻ
quãng đường xa
Thuyền quyên
có ý trông theo thế
Quân tử vô
tình bước mãi a?
Rồi nữa rồng
mây ra mỗi ngả
Còn đâu huê
nguyệt nữa đôi ta
Hỡi anh áo
trắng cầm ô máy
Có phải nhân
tình chớ vội qua!
(Tản Ðà, Khối tình con 1)
Còn tiếp