Phần II
Cõi thiên đường (1)
“Từ mộ huyệt cõi âm vọng đáp
Hãy sống đi rồi biết
Vời vợi cao xanh chỉ thấy mây cười”
(Thơ Lý Phương Liên)
Tỉnh dậy sau một đêm ngủ say li bì với giấc mơ trên.
Tôi vừa dụi mắt ngồi dậy đã nghe tiếng Duy, vợ tôi ca cẩm:
- Ngủ gì mà gáy pho
pho như kéo gỗ không cho người ta ngủ gì sất. Xưa nay ông ngủ có gáy to thế bao
giờ đâu cơ chứ? Nằm cạnh người gáy to như bò, ma Tây cũng chẳng ngủ được nữa là
cái thân tôi, già cả, lại đang bị bệnh khó ngủ. Bị đánh thức giữa chừng không
làm sao ngủ lại được nữa, giời ạ!.
Tôi chẳng dám nói gì
cứ lặng thinh coi như tai mình bị điếc, mặc cho Duy cự nự. Rồi cả tuần lễ sau
đó tôi như người mất hồn, ăn không biết ngon, ngủ không yên giấc, đầu óc cứ
bâng lâng tiêng tiếc, cảm thấy như vừa đánh mất thứ gì to lớn quý giá lắm,
không nghĩ xa cũng chẳng thiết nghĩ gần, người cứ mụ mị, ngẩn ngơ như kẻ mất hồn.
Duy nhận ra sự khác thường ấy nơi tôi; thấy tôi đứng đâu ngồi đâu cũng không
yên, ra ngẩn vào ngơ, chốc chốc lại thở dài đánh thượt. Duy sinh nghi nhìn tôi
soi mói, rồi trừng mắt hỏi:
- Ông bồ bịch, nhớ
nhung con mẹ nào mà cứ thở dài thượt thượt cả ngày thế?
Tôi bảo:
- Nhớ “con mẹ” sáu tấm!
Sợ tôi mắc troét (Stress), Duy bàn đi nghỉ mát, tắm biển vài
ngày. Ở nơi đông người vài hôm cho tôi cân bằng tinh thần, cho khuây khoả. Tôi
thấy thích nên tán thành đi biển theo ý vợ. Duy bảo thuê taxi, tôi sợ đi taxi tốn
tiền nên bàn đi xe khách cho rẻ.
Sáng hôm sau Duy xách
một túi, tôi xách một túi tư trang ra bến xe buýt. Thấy chiếc xe buýt là là ghé
bến, cửa tự động mở, chẳng hiểu nếp tẻ, tôi sấn tới cửa định leo lên, liền bị
Duy kéo áo lôi giật lại mắng xơi xơi:
- Ông bây giờ mất trí
rồi hay sao ấy, bạ xe nào cũng leo lên thế thì nó cho ông đi Văn Ðiển. Ông muốn
đi Văn Ðiển hả? Xe này đi Văn Ðiển thật đấy, ông lên đi, nó đưa ông đi ngay bây
giờ!
- Thì tôi vừa từ Văn
Ðiển về xong! - Tôi vừa nói vừa cười, Duy không hiểu ngụ ý câu nói ấy, liền lườm
tôi một cái sắc lẹm kèm thêm cái nguẩy người quật cả cánh lưng to bè vào mặt
tôi, “ra điều bà đây đang tức bực lắm rồi”. Những người đứng chờ xe buýt thấy
thế bật cười thành tiếng làm tôi ngượng chín người.
Một chiếc xe buýt
khác nữa là là ghé bến, tôi vẫn đứng đực không dám lên, sợ lên không đúng xe lại
bị ăn mắng lần nữa. Duy giục:
- Lên đi chứ, ông định
đợi chuyến sau à? Xe sang Gia Lâm đấy. Không hiểu sao mấy hôm nay tôi thấy
ông cứ đờ đờ đẫn đẫn như người mất hồn, bị con mụ nào bắt mất hồn mất vía thật
rồi!
Ðúng
thế, mấy hôm nay, bất cứ lúc nào và làm gì, nhất cử nhất động tôi đều bị Duy mắng.
Mắng liên tục, hình như có người xúi khiến Duy mắng tôi. Trước đây có thế bao
giờ, Duy cưng chiều tôi từ miếng ăn hụm uống, tôi không thích ăn thứ gì là Duy
cũng không thích thứ ấy luôn cùng tôi. Tôi không thích ăn rau xà lách sống là
Duy không hề mua rau sống bao giờ nữa, mặc dù món ấy Duy rất thích, rất khoái khẩu. Duy bảo “ăn rau sống mát ruột”. Duy thay
đĩa rau sống bằng đĩa dưa chuột gọt vỏ thái lát rất ngon để chiều khẩu vị của
tôi. Thấy tôi không thích ăn thịt trâu, thế là ngay cả thịt bò Duy cũng không
mua về ăn, sợ mua nhầm phải thịt trâu, vì người bán hàng ở ta thiếu sự thật
thà, bán thịt trâu lừa các “thượng đế” là thịt bò là chuyện thường ngày ra chợ
là gặp. Lý do tôi không ăn thịt trâu có duyên do thế này: Một lần xem người ta
giết trâu, thấy cách người ta giết con trâu dã man qúa: Một người lực lưỡng mặt
đỏ phừng phừng, tay trái nắm chặt sợi dây thừng sát sẹo mũi
con trâu, tay phải vung búa giáng một nhát đánh đốp trúng giữa đỉnh thóp, con
trâu hộc lên một tiếng, bốn chân khuỵ xuống tức thì, hai mắt nó trợn trừng trắng
dã nhìn người vừa giết mình đầy căm hận rồi gục xuống phì nhớt dãi đầy hai bên
mép. Họ xúm lại, người cắt cổ
hứng tiết vào chậu, kẻ chặt chân, đứa mổ bụng lột da, moi ra một đống ruột
già ruột non, cả cái dạ dày phồng căng bùng nhùng một bọc to, rồi họ rạch dao
tuôn ra một đống phân để lựa lấy lớp lá sách ăn cho giòn, cho khoái khẩu. Tôi
nhìn thấy những con sán xơ mít ngọ nguậy tự ngắt mình ra từng khúc dèn dẹt hồng
hồng bò đi tứ tung trong đống phân, cỏ và máu trâu đọng thành vũng. Xem giết
trâu vào ban đêm nhìn thấy những con sán dây sáng xanh như đom đóm nghĩ mà
kinh. Tôi sợ món thịt trâu, dị ứng với thịt trâu bởi vài lần trông thấy người
ta giết thịt tương tự vậy.
Xuống
xe buýt trong bến xe Gia Lâm, Duy cầm tay tôi lôi xếnh xệch sang xe khách để đi
Hải Phòng. Lên một chiếc xe của hãng Hoàng Long, trên xe mới có một nửa khách.
Duy ấn vai tôi ngồi xuống một chiếc ghế trống, tôi chưa kịp xê người dành chỗ cho Duy ngồi, Duy đã:
-
Dịch vào, định ngồi mình ông một ghế chắc? Nhà xe người ta chả để cho ông ngồi
một mình một ghế đâu. Nếu ngồi một mình ông trả tiền gấp đôi thì được!
Ngồi
trên xe, từ Gia Lâm đến Hải Phòng, hễ tôi nói câu gì, bất kể sai hay đúng cũng
bị Duy chặn họng: “Thôi ông im đi…” đánh bốp một cái. Hoặc tôi có động tác gì,
như ngọ nguâỵ chạm vào người Duy là Duy lại “ứ ừ” ngấm nguýt làm tôi tối cả mặt. Một bà ngồi nghế trên chắc bị say xe, xoa dầu gió, mùi
dầu khó chịu, tôi lấy
khẩu trang đeo vào miệng cũng bị Duy ca cẩm:
-
Gớm chết, mùi dầu của người ta thơm như mùi nước hoa thế mà cũng… sĩ diện. Khẩu trang với cả rọ mõm!
Xuống đến biển, Duy lại
lôi xềnh xệch tôi và cái túi vào nhà nghỉ. Nhân viên nhà nghỉ bảo:
- Bác cho cháu mượn
chứng minh thư nhân dân.
Tôi bảo:
- Cả giấy kết hôn nữa
chứ!
Cậu nhân viên cười hề
hề, bảo:
- Không cần đâu bác ạ.
- Sao không cần? Nhỡ
hai chúng tớ không phải vợ chồng thì sao?
- Dù hai bác không phải
vợ chồng cũng vô tư nghỉ ở nhà nghỉ của cháu cả tháng cũng không sao, thời buổi
bây giờ mà bắt khách xuất trình đăng ký kết hôn thì chỉ ma vào nghỉ!
Phần II
Cõi thiên đường (2)
Nói xong câu ấy anh nhân
viên nhà nghỉ cười hi hi, điệu cười “tra muối” cho thêm mặn câu khôi hài của
mình. Giữ nguyên nụ cười nguỵ tạo trên môi, anh ta xách mỗi tay một túi giúp
chúng tôi và dẫn chúng tôi lên tầng hai nhận phòng. Nhận phòng xong, chờ tay
nhân viên đi khỏi Duy lại mắng:
- Ông
đốc chứng ngu từ bao giờ thế? Nó không hỏi đăng ký kết hôn ông lại nhắc nó, dạy
nó “lạy ông tôi ở bụi này”. Nhắc thế, ngứa tiết, nó đòi xem đăng ký kết hôn thì
sao? Mà lúc đi, vội quá quên có đem đâu. Không đủ thủ tục giấy tờ nó không cho
thuê phòng, đêm ra gốc cây rải nilông mà ngủ chắc? Hay ông bắt tôi về nhà lấy?
Hai thứ tóc trên đầu còn dại. Ngu! Biết ông ngu lâu thế này ngày xưa tôi lấy
cái ghế đá công viên còn hơn lấy ông làm chồng.
- Thì
tôi biết đâu. Ngày xưa tôi với bà vào khách sạn nào mà chẳng phải nộp chứng
minh thư nhân dân và đăng ký kết hôn. Giờ thoáng thế này thì những người không
phải là vợ chồng cũng thuê phòng ở với nhau bét nhè được ư? Nhà nghỉ, nhà trọ,
khách sạn bây giờ họ coi luật hôn nhân & gia đình của xã hội chỉ là thứ tượng
trưng hay sao ấy nhỉ? Hèn nào đêm Noel vừa rồi nhà mình khách đến chơi đông quá
tôi đi thuê nhà nghỉ cho các bác các chú ấy nghỉ tạm, đến đâu họ cũng trả lời hết
phòng! Họ bảo: “Noel và Tết Tây năm nào nhà nghỉ toàn thành phố chẳng “cháy
phòng”, bác ơi”! Không thuê được phòng phải về trải chiếu dưới nền nhà cho
khách ngủ cứ áy náy mãi về việc ấy. Người các tỉnh bây giờ chơi sang quá đi mất,
Tết Tây, đêm Noel kéo nhau ra Hà Nội ăn chơi, chật kín mấy nghìn cái nhà nghỉ,
khách sạn. “Khùng” quá ha!
Duy sắp
xếp quần áo, đồ ăn thức đựng, rải lại ga giường, chỉnh lại đệm xong rủ tôi ra
biển tắm luôn. Tôi lấy lý do đi đường xa đang mệt tắm ngay không lợi sức khỏe.
Nhất định Duy không chịu, bắt đi tắm luôn lúc ấy. Tôi phải giả vờ kêu đau đầu
và lăn quay ra giường, vờ rên:
- Ới
giời ơi nhức đầu quá.
- Ra
biển để tắm chứ không phải đi biển để nằm vật ra như khúc gỗ thế đâu nhá!
Mặc
Duy mắng cho sướng miệng, làm như mình đau đầu thật, đau lắm, hai tay tôi ôm đầu,
co người như con tôm rên to hơn. Rên vờ. Tưởng tôi đau thật, Duy không rủ đi tắm
nữa. Duy đành ra biển tắm một mình kệ tôi nằm lại đó. Trước khi đi Duy còn dấn
thêm một câu giọng càu nhàu:
- Người
gì cứ ì thân cụ như người mã, toàn thấy nằm là nằm…
Duy
đi rồi, tôi vi vu chìm vào giấc ngủ.
Đang
tha thẩn trên bờ biển thì một chiếc thuyền ghé sát vào người, và dường như có
người đẩy tôi lên thuyền, cái thuyền vun vút lao đi đưa tôi đến nơi không hiểu
đảo hay đất liền. Ở đó cây cối um tùm, cây nào quả cũng sai chíu chít, chín
vàng rực một vườn toả mùi thơm ngọt ngào. Tôi bỗng thấy khát nước, chẳng suy
nghĩ gì, tôi với hái luôn mỗi tay một quả đào. Chưa kịp cắn miếng nào thì hai
thiên binh đã hiện ra đứng cạnh. Một ông mặt đen, một ông mặt đỏ, ông túm tay này,
ông nắm chặt tay kia bắt quả tang tôi ăn trộm đào. Ông mặt đen râu ria tua tủa
đầy cằm, ông mặt đỏ không râu nhưng đôi lông mày xếch ngược, ông nào cặp mắt
cũng trắng dã trợn trừng đảo qua đảo lại, chân giậm uỳnh uỵch, tay múa chuỳ,
múa đao hầm hừ nạt nộ ra oai rồi lôi tôi trói nghiến vào gốc cây với lý do tôi
ăn trộm đào quý của Ngọc Hoàng. Biết việc làm của mình là sai tôi nói lời xin lỗi
nhưng hai vị ấy không cho xin lỗi. Họ bảo trên trời không có lệ xin lỗi, hễ ai
trộm cắp, ăn cướp, tham ô, tham nhũng là trị tội thẳng thừng. Của trời miễn xâm
phạm, của trời lấy một phải đền mười. Trói tôi vào gốc cây xong, ông cầm chuỳ,
ông cầm đao với bộ mặt trừng trộ đứng canh hai bên.
Một
đoàn tiên nữ xiêm y rực rỡ tha thướt hiện ra lả lướt múa xung quanh, chẳng hiểu
họ múa để làm gì, múa cho ai xem? Múa cho tôi xem ư? Chắc là không rồi. Ðể hai
vị thiên binh xem? Nhưng hai vị ấy mặt mũi đang hầm hầm thế kia? Tôi thì cả
chân lẫn tay bị trói chặt, xem sao được
múa! Tôi tiêu cực bằng cách nhắm chặt hai mắt và ngoảnh đi. Bị trói, bị dọa
đánh, ai thiết gì xem. Hễ tôi nhắm mắt vào là hai vị thiên binh lại thét, quát
bắt tôi mở mắt ra. Bực mình tôi ngoảnh mặt đi nơi khác, họ lại bắt tôi ngoảnh lại
phía đàn tiên múa. Kệ họ quát, thét tôi vẫn bướng bỉnh nhất định không xem,
không thèm xem. Có lẽ cả thiên đường, địa ngục và trần gian chưa có trường hợp
ai bị trói, bị ép xem múa hát kiểu như tôi lúc ấy. Muốn phản đối nhưng thấy hai
ông bắt trói tôi bộ dạng dữ dằn quá nên tôi không dám phản đối gì. Lúc ấy người
tôi, chân tay tôi cứ rủn cả ra như chân tay mượn. Và Huệ hiện ra, Huệ vờ như vô
tình đi qua gặp tôi:
- Ô…
sao anh Phong lại thế này?
Rồi
Huệ quay sang hỏi hai thiên binh, thiên tướng, người bắt giữ tôi:
- Sao
hai bác bắt anh ấy?
Ông mặt
đen trả lời:
- Gã
này ăn trộm đào quý của nhà trời, chúng tôi bắt quả tang.
- Hai
bác thả anh ấy ra, bạn em đấy. Một hai quả đào thì đáng gì mà bắt trói bạn em
thế này?
- Bạn của cô Huệ à? Nếu là bạn cô dù có lấy nhân đan, ngọc quý của Ngọc
hoàng cũng chẳng sao, của chùa ấy mà!
Phần II
Cõi thiên đường (3)
Rồi họ
cởi trói cho tôi, lấy ghế mời tôi ngồi xem các nàng tiên múa. Huệ bảo đây là
Thiên Ðường, khách khứa thăm chơi ngày đêm liên tục, tiệc tùng múa hát suốt
ngày đêm, sướng lắm, vui lắm không khổ như chốn trần gian và âm phủ đâu. Nơi
tôi bị bắt trói, “bị” xem múa cũng là nơi các tiên nữ tập múa để đi biểu diễn
trong những cuộc hội hè đinh đám, chào khách, đón khách của nhà trời.
Huệ
chìa cho tôi xem tờ giấy mời và rủ tôi cùng đi dự tiệc khao với Huệ ở tư dinh một
ông Biểu tào phán quan nào đó. Thấy hay hay là lạ, tôi hỏi Huệ:
- Biểu
tào là vị thần nào, làm việc gì, chức vị ra sao hả em?
Huệ hỏi
lại tôi:
-
Hàng năm nhà anh có cúng Giao thừa không? Cúng ngoài trời ấy?
- Có,
bà xã anh Giao thừa nào cũng cúng một mâm. Tôi nói với Huệ thế.
- Tục
“Tống cựu nghênh tân” ở trần gian đấy! - Huệ giải thích. - Trên trời có 12 vị
hành khiển, đó là 12 vị Thời thần (thần thời gian), Ngọc Hoàng sai mỗi vị xuống
làm việc dưới trần một năm theo âm lịch cùng thần hộ vệ của mình là các Biểu
Tào phán quan. Mâm vật phẩm ấy với ý nghĩa lễ tiễn hai vị Thời thần cũ về trời,
đón hai vị Thời thần làm việc năm tiếp theo - năm mới. Tuần tự quay vòng tính
theo mười hai con vật (con Giáp), luôn phiên mỗi năm một vị. Vị thứ nhất:
- Chu vương hành khiển, có vị thần hộ vệ là Lý
tào phán quan, trông coi năm Tý.
- Triệu vương hành khiển, vị thần hộ vệ là Khúc
tào phán quan, trông coi năm Sửu.
- Nguỵ vương hành khiển, vị thần hộ vệ là Tiêu
tào phán quan, trông coi năm Dần.
- Trịnh vương hành khiển, vị thần hộ vệ là Liễu
tào phán quan, trông coi năm Mão.
- Sở vương hành khiển, vị thần hộ vệ là Biểu tào
phán quan, trông coi năm Thìn.
- Ngô vương hành khiển, vị thần hộ vệ là Hứa tào
phán quan, trông coi năm Tỵ.
- Tần vương hành khiển, vị thần hộ vệ là Nhân tào
phán quan, trông coi năm Ngọ.
- Tống vương hành khiển, vị thần hộ vệ là Lâm tào
phán quan, trông coi năm Mùi.
- Tề vương hành khiển, vị thần hộ vệ là Tống tào
phán quan, trông coi năm Thân.
- Lỗ vương hành khiển, vị thần hộ vệ là Cựu tào
phán quan, trông coi năm Dậu.
- Việt vương hành khiển, vị thần hộ vệ là Thành
tào phán quan, trông coi năm Tuất.
- Lưu vương hành khiển, vị thần hộ vệ là Nguyên
tào phán quan, trông coi năm Hợi.
Vị Biểu
tào mở tiệc hôm nay nằm trong số mười hai vị Phán quan em kể ở trên. Năm nào ứng
với vị Hành khiển nào thì cứ năm đó, trình tự 12 năm một lần theo thông lịch
Can chi: Tý, Sửu, Dần, Mão… năm đến lượt mình, vị Hành khiển ấy cắp bó lúa cùng
thần hộ vệ Tào phán quan vai đeo tay nải cưỡi mây đáp xuống hạ giới đem mùa
xuân mới đến cho từng nhà. Nghèo cũng như giàu, mâm cúng nhỏ hay to các Hành
khiển không mấy bận tâm, cứ mỗi nhà các vị bứt cho một nắm thóc, nhà không có
mâm cúng, Hành khiển cho hai nắm, với ý rằng: nhà nghèo cho lộc gấp đôi ba để
năm đó gia đình họ làm ăn khấm khá hơn. Tào phán quan đi theo quan Hành Khiển để
thu vật lễ, hai thứ chính là rượu và tiền vàng; nhất là những tệp tiền đô la địa
phủ mà hai ba thập kỷ nay đã được xã hội hoá trong văn hoá cúng lễ của người Việt.
Thứ tiền ấy là các Biểu tào phán quan thích nhất, mê nhất. Bao giờ các vị ấy
cũng vơ đầu tiên bỏ vào tay nải rồi mới đến các thứ khác. Họ bảo đen về nhập
vào kho nhà trời. Không hiểu ông trời có được chai rượu, con gà luộc, cái chân
giò, chiếc thủ lợn nào không, không biết nữa. Hay các quan trời chia năm xẻ bảy
ăn nhậu với nhau từ xa tất cả, người trần mắt thịt chỉ biết cúng, ai nhìn thấy
mà biết các Biểu tào đem đi đâu, nhập vào kho trời kho đất nào? Là trời, ông ta
thiếu gì của ngon vật lạ mà phải ăn đồ nguội lạnh, đồ ruồi bâu của hạ giới
cúng?
Phần II
Cõi thiên đường (4)
Những lần, những năm làm việc dưới trần gian quen
biết những vị chức sắc nơi này nơi kia, từ thần sông, thần núi, thổ địa các
làng, xã, huyện lên đến tỉnh, nắm được các chiêu thức làm ăn của cõi người, biết
thứ gì giá trị thứ gì không, thứ gì đáng là vàng là tiền, thứ gì chỉ là bùn là
cát, các vị Phán quan đều ma mãnh quỷ quái cả. Cách đây vài chục năm đất đai ở
các thành phố lớn dưới hạ giới rẻ như bèo, bạn bè hàng xóm thân nhau cần thiết
có thể xin nhau vài ba mét vuông, người rộng bụng cắt cho ngay. Thập kỷ 90, đất
tăng giá ầm ầm, dân buôn đất hôm trước mua trăm mét để đấy, ngủ một đêm dậy mở
mặt ra đã lãi gấp đôi gấp ba, phất lên giàu thành những đại gia bất động sản, mặt
mày núng nính thịt, tha hồ ăn to nói lớn, họ thao túng dược cả “thần linh thổ địa”!
Năm
2000 (Canh Thìn), năm nhiệm kỳ Sở vương hành khiển và Biểu tào phán quan xuống
trần làm việc. Mãn hạn, cuối năm bàn giao lại cho Thời thần Ngô vương hành khiển
và Hứa tào phán quan, hai vị Hành khiển, tào phán quan cai quản tiếp năm Tận Tỵ
(2001). Biểu tào không về trời mà ông ta ở lại cõi trần, nói là: “Ở để đi du lịch”!
Mà Biểu tào có về trời cũng chỉ để ngồi chơi, uống rượu và đánh cờ với với nhau
chứ có việc gì trên đó mà làm. Cõi tiên ấy mà! Ở lại trần gian rong chơi sướng
hơn, lắm của ngon vật lạ hơn!
Biểu
tào đóng vai một Việt kiều về nước để làm ăn. Ông ta nhằm vào một bãi đất hoang
ở một xã ngoại thành nọ. Bãi đất ấy có một dự án rất chi quy mô của mấy nhiệm kỳ
Hội đồng nhân dân trước ra nghị quyết xây nhà văn hoá xã, gồm một khu vui chơi
giải trí: Hội trường, thư viện, sân bóng chuyền, sân bóng đá, sân quần vợt, sân
cầu lông cho Hội Người cao tuổi, Hội Cựu Chiến Binh, các đoàn thể Thanh - Thiếu
niên - Nhi đồng. Nhưng kẹt nỗi huyện chưa rót tiền về, nên đất còn để hoang cho
cỏ mọc cho vui. Đám trẻ em thấy bãi đất bỏ hoang, chiều chiều rủ nhau ra đá
bóng, thả diều… Giờ có doanh nhân “Việt kiều” về nước đầu tư góp phần xây dựng
đất nước thì tạm nhường cho họ trước, bao giờ có tiền thì xây nhà Văn hoá sau,
lấy đất chỗ khác xây cũng được, “làng ta, xã ta thiếu cha gì đất cát” lấy chỗ
nào chẳng xây dựng được một “Cung văn hóa” hoành tráng trên giấy!
Xã hạ
quyết tâm lãnh đạo nhân dân giao đất lại cho vị doanh nhân “Việt kiều” kia. Mà
xã không đồng ý cũng không được, cấp trên: Huyện, tỉnh đã ký duyệt cả rồi, cấp
xã làm trái lệnh được à? Mà xã mình cũng sắp nên đời đô thị mới đến nơi. Dân đô
thị ai lại đi làm nông nghiệp, dây vào ruộng ruộng vườn vườn, cày cày cuốc cuốc
hai sương một nắng cháy đen mất làn da bà con ta thì còn ra thể thống gì là dân
đô thị. Dân đô thị phải da dẻ hồng hào, trắng nõn trắng nà mới ra dáng chứ!
Không
những khu đất ấy, quan trời còn lấy thêm dăm bảy mẫu ruộng đang canh tác ổn định,
lấy thêm cả khu đầm, hồ một tập thể nông dân đang đấu thầu nuôi trồng thuỷ sản.
Vị Tào phán quan đó đem đô la âm phủ, thứ tiền mà dân gian cúng trời, cúng thần
thánh những đêm Giao thừa mà Biểu tào ăn bớt được hoá phép ra thành đô-la Mỹ
chính hiệu, đổi lấy Việt Nam đền bù việc thu hồi đất. Mỗi mét vuông họ được đền
bù 25.000đ gọi là tiền đền bù hoa mầu trên đất. Đất đai là của thiên nhiên do
nhà nước quản lý, nhà nước muốn lấy lúc nào thì lấy… phận dân đen cấm kêu ca!
Những
người nông dân, quen với những mối lợi trước mắt, mừng rơn khi nhận tiền đền bù
đem về xây nhà, mua sắm tivi, tủ lạnh, xe máy, cho con cái đi hát Karaoke, đi học
nhẩy đầm, hít lắc cho văn minh kịp người thành thị, cho sướng một đời làm người
thành thị; cứ việc đút hai tay túi quần để làm người thành thị đi bát phố hít bụi
đường, hít khói ôtô, khói xe máy đã no một bụng đẫy, đủ sung sướng rồi… cần gì
giữ ruộng giữ đất cho vất vả! Khi tiền hết, đất không còn một tấc cắm dùi thì vợ
chồng con cái kéo nhau lên các thành phố lớn, chồng làm cửu vạn, vợ buôn chè
chai đồng nát, con cái đứa đánh giầy, đứa bán báo rong để hưởng thụ cho đã cuộc
đời người thành thị, để ơn trời, ơn bề trên cho quên đất!
Phần II
Cõi
thiên đường (5)
Quan trời cho rào dây kẽm gai bốn xung quanh lại,
dựng mấy gian nhà cấp bốn sơ sài đóng cửa để đấy. Dần dà chia lô bán lại cho
nhà giàu từ nội đô đổ ra mua, người để ở, người để giữ tiền, giữ tài sản bằng
những mảnh đất bờ xôi ruộng mật từng thấm mồ hôi xương máu từ đời tổ tiên của
người nông dân. Bỏ một vốn bán lãi ngay hai, ba trăm lần lời. Quan trời ăn lãi
đất, quan X quan H thì ăn đất bờ mương, lòng máng, ăn các bờ vùng bờ thửa, ăn
những gò đống trên cánh đồng phất lên giàu tú ụ cả một lũ lĩ với nhau.
Là bạn
thời lính chiến với Huệ, tôi được Huệ rủ cho đi ăn theo bữa tiệc khao ấy.
Ðang
ngồi trên xe mây bay về phía cổng trời thì gặp một người cưỡi cái mo cau lừ lừ
bay về phía chúng tôi. Tôi tưởng đó là mụ phù thuỷ cưỡi chổi đi tìm bắt cóc các
nàng công chúa về giam cầm vì mụ ghen tài, ghen sắc của các nàng. Bởi bộ tóc dở
dài dở ngắn buộc túm sau gáy của người đó, kiểu tóc của đám nghệ sĩ nửa mùa,
đám đồng cô, hay đám đồng tính nên tôi nhầm vị là mụ phù thuỷ. Người ấy bay đến
gần chúng tôi, bay quanh chúng tôi giơ máy ảnh chụp lia chụp lịa. Chụp xong,
người ấy cười vui phớ lớ, phô toàn bộ cả lợi cùng răng.
Tôi
nhìn người ấy, người ấy nhìn tôi, và bất ngờ chúng tôi cùng reo to, cùng gọi
tên nhau.
- Tung à!
-
Phong à!
Rồi người ấy trầm trồ:
- Chà chà, số ông thế mà hên, cặp bồ được cả với
tiên? Ghê thật! Ghê thật! Số ông đỏ chói cờ hồng phất phới Mạc Tư khoa ghê!
Tôi vội phân bua:
- Bồ bịch gì đâu, bạn thời lính với nhau ấy
mà. Còn ông đi đâu vậy?
- Tớ lên du lịch vũ trụ xem có gì lạ để về
viết lách cho vui. Chuyện trần gian viết mãi nhàm quá rồi, chẳng muốn viết nữa.
- Chán viết văn, sao ông không làm thơ?
- Làm thơ để làm gì cơ chứ! Giờ mấy ai
mua thơ, đọc thơ đâu, ngoại trừ in xong đem kính tặng, kính biếu để thiên hạ
bày làm sang giá sách.
- Chả nhan nhản câu lạc bộ thơ, từ cụm
dân cư đến phường, xã, quận, huyện, tỉnh đâu đâu cũng câu lạc bộ thơ hoạt động
sôi nổi lắm mà?
- Ối dào, toàn những người rỗi việc! Ông
nghỉ hưu, bà nội trợ làm thơ để thủ dâm tinh thần!
- Sao ông loạn ngôn, ác miệng vậy?
- Không loạn ngôn tí nào, mà đúng
đấy! Mấy ông mấy bà không có việc gì làm sinh ra thơ thẩn, tự đọc, tự ngâm, tự
sướng... Như thế chả thủ dâm tinh thần là gì?
- Viết văn, làm thơ là làm đẹp cho cuộc sống,
làm vui cuộc sống, cũng là người viết lách sao ông lại quá lời bỉ báng lẫn
nhau?
Nghe Tung trách thế tôi im lặng chẳng nói
gì thêm nữa, đành nhe răng cười trừ cho qua chuyện.
Tới cổng trời thì chúng tôi chia tay
nhau. Tung tiếp tục cưỡi mo cau bay về phía các vì sao trước mặt. Trước khi bay
đi, Tung nói:
- Mai về có gì hay Phong kể cho mình nghe
nhé!
Tôi nói bâng quơ:
- Tay này có phép từ bao giờ nhỉ?
Huệ Bảo:
- Bạn anh đang mơ! Hồn vía đang trên mây
xanh!
Xin kể vài đoạn về con người này:
Trời xui đất khiến thế nào Tung tập tọng
viết văn, viết truyện, ôm mộng trở thành nhà văn nhà vẽ. Nhà văn chưa thành,
nhà vẽ Tung đã ngo ngoe sát mép nước, bôi bẩn cả nghìn trang giấy. Biết mộng mị
của Tung, có người khuyên:
- Lao vào hành xác chốn văn chương làm gì
cho khổ? Các bậc lão luyện trong nghề này nhiều lúc còn định quăng bút nữa là,
làm nghề khác cho đỡ khổ.
Nghe khuyên, Tung đã nản chí buông bút định
thôi. Nhưng niềm đam mê đã gặm nhấm vào tận nếp nhăn não bộ, khó rứt bỏ. Mà
trên văn đàn hiện tại có hàng nghìn người vẫn đang hành xác có sao đâu, chỉ sợ
không có năng khiếu để hành xác. Tiến sĩ học hói đến tận trốc đầu mục đích chỉ
để làm quan, hay giữ một chân dạy ở trường nào đó rồi đi bán “cháo phổi” thêm
cho các lò luyện thi đại học lấy tiền tươi về xây nhà lầu, hoặc ém mình trong
phòng nghiên cứu và giỏi chê bai, có mấy ai theo nghiệp cầm bút khổ ải đâu. Ðất
nước nửa thế kỷ chiến tranh, chiến thắng hào hùng hẳn hai tên đế quốc, một thằng
phát xít, làm nên mấy trận Ðiện Biên tầm cỡ thế giới mà chưa có một tác phẩm
văn chương nào mang tầm thế giới, thế có tiếc không? Vậy mà lúc nào cũng tự
tâng bốc mình: “ta thông minh, ta học giỏi...”. Chưa đâu. Thông minh và học giỏi
sao các bác chưa cho nhân đân anh hùng này vài tác phẩm tầm cỡ như “Chiến Tranh
Và Hoà Bình (12), tầm cỡ "Sông Ðông Ðông êm Ðềm...”(13) gửi đi giựt giải
Nobel?...
----------------------------
(12): Tiểu thuyết của văn hào Nga Lev.Tolstoi.
(13): Tiểu thuyết của nhà văn hiện đại Nga
Mikhain Sholokhov.
Phần II
Cõi thiên đường (6)
Các bác chỉ tài đánh “du kích” nhỏ lẻ, véo đầu cá
chắp vá đầu tôm, ghi chép hời hợt sống sít vài ba sự việc cỏn con xào nấu ra những
tác phẩm hèm hẹp kiểu hàng nội địa vừa thiếu tính thời đại, vừa thiếu tinh thần
dân tộc truyền thống, tính sử thi thì yếu; yếu tố nhân văn cho một tác phẩm văn
học hiện đại thì mờ nhạt, manh mún nhỏ hẹp. Có một giai thoại trên văn đàn: Một
nhà văn bực nhà phê bình nọ, nhà văn thách nhà phê bình viết thử lấy một cuốn
truyện xem hay đến mức nào mà tinh đi chê ỏng chê eo, dạy đĩ vén xống: “Nhân vật
này phải thế này, nhân vất kia phải thế khác thì tác phẩm sẽ đạt đến tầm nọ tầm
kia”. Nhà phê bình nghe được bèn xa xôi dẫn lời một nhà phê bình gia người nước
ngoài:
- Con
gà đẻ một lứa mấy chục quả trứng mà nó có biết thưởng thức món trứng rán ngon
thế nào đâu!
Nhà
văn đủng đỉnh gõ ba tong vào không khí:
- Có
biết cái sự đẻ của con gà vừa đau vừa rát thế nào không?
Với
những suy nghĩ về nền văn học của đất nước chưa có được đỉnh cao, cả việc tóm
được cái giai thoại vui vui kể trên làm nền cho Tung xây dựng một quyết tâm viết.
Tung viết như bị ốp đồng, mê cuồng trong viết lách.
Không
rõ tại ở bẩn hay tại nằm ổ rơm mà chấy rận như sung. Năm ấy, trời rét căm căm,
rét ông chưa qua rét bà lại đến, rét tàn rét hại, mưa phùn gió bấc lai rai cả
tháng trời, được ngày hoe hoe tí nắng ấm là người lớn trẻ con kéo nhau lên mặt
đê sưởi nắng và bắt chấy rận cho nhau. Các bà già vạch diềm áo nhặt rận cho vào
mồm thun thút, cắn kêu câng cấc. Có người nhiều rận quá bắt không xuể bèn rải
áo, rải quần, rải khăn vấn ra mâm đồng dùng vỏ chai xiết như xiết đậu xanh,
nghe tiếng rận nổ lép bép, máu rận dính đỏ tím lấm tấm khắp mâm, vậy mà có anh
nhà thơ nằm nhờ ổ rơm một đêm lại tưởng tượng ra ổ rơm sướng như ngủ giường
tiên để viết thành thơ, thành văn? Riêng gã, nghĩ tới ổ rơm, hoá chấy sinh rận
như sung kinh khiếp thế nào rồi. Xin vái ổ rơm mười đời nón lá. Gã căm thù lũ
chấy rận, chính vì chúng mà gã phải sống với người dì ghẻ cay nghiệt. Vì chúng,
những con chấy cái rận giống ký sinh trùng chuyên bám trong quần áo để hút máu
người mà cuộc đời gã không hề có tuổi thơ êm đềm.
Ngày
ngày chị Bút đến bắt chấy rận giúp bà cháu gã. Ðem cho gã dăm tấm mía de, khi
tước mía ăn, vỏ mía sắc như cật nứa cứa rách mép, rách lưỡi, bã mía dính đỏ
máu. Tay bắt chấy cho bà cháu gã, mồm chị Bút tỉ tót những lời đường mật:
- Bà
chẳng đẻ ra con cũng như bà đã đẻ con, con sẽ coi bà như mẹ đẻ, con sẽ thay cô
Hai phụng dưỡng bà, chăm chút con anh Hai như con mình...
Khi
lấy được bố gã rồi dì ghẻ thay đổi hẳn cách đối xử.
Ký ức
cuộc đời gã tràn ứ ngòi bút chảy đầy từng trang giấy vẽ lại người mẹ ghẻ cay
nghiệt chao chát. Không rõ người mẹ ghẻ ấy ghét gã ở điểm gì mà cứ thượng cẳng
chân hạ cùi tay lên cái thân hình còm nhom cậu bé 9, 10 tuổi mồ côi mẹ về quê tản
cư ngày ấy. Ðánh mỏi tay dì huy động đến mồm, tru tréo quật săng móc mả tận cụ
tổ ngũ đại nhà gã chửi cho sướng miệng. Không sao, cụ ngũ đại là của cả dòng họ,
mà cụ chết từ đời tám hoánh gã đâu biết mặt cụ để mà thương xót.
- A,
bà đào bới xới rễ nhà mày thế mà mặt mày cứ trân trân như đĩ trần không váy.
Thánh sư cha con đĩ đẻ ra mẹ mày.
Ðến
nước ấy thì gã không thể chịu được nữa. “Con đĩ đẻ ra mẹ” gã là người bà ngoại
yêu thương kính trọng của đời gã. Người bà ngoại trước khi dì ghẻ lấy bố gã từng
đùm bọc chăm bẵm cả tuổi ấu thơ của gã ở quê những năm tản cư. Tính theo cấp bậc
họ hàng thì dì ghẻ còn phải gọi bà ngoại gã là bà trẻ, gọi mẹ gã bằng cô “cháu lấy chồng cô, thóc lúa đổ bồ, giống má
nhà ta!” Lấy bố gã rồi gã vẫn quen lệ cũ gọi dì ghẻ là chị. Bà có chum thóc
nếp để dành ăn tết, chị em dì ghẻ lẻn vào lấy trộm về xay ăn dần. Vườn củ bột của
bà sắp thu hoạch bị chị em dì đêm rủ nhau đào trộm gánh đi chợ bán. Bà ngoại tiếc
của trồng ngược cây chuối trước cổng, vẽ vôi thành hình mặt, mũi, mồm lên củ
chuối bắc ghế chửi rủa suốt sáng trưa chiều tối. Mỗi câu chửi, bà lại lấy gai
găng, gai bồ kếp cả chùm cắm vào mắt mũi kẻ ăn trộm thóc, trộm củ bột của bà
cho nó đui mù thui chột, nhưng hai kẻ ăn trộm vẫn sống nhơn nhơn.
Trong
góc khuất tâm hồn gã, bà ngoại là cõi thiêng liêng của đời gã, mà dì ghẻ dám
xúc phạm. Bao nhiêu tội tầy đình của chị em dì ghẻ gã đã cho qua. Lần xúc phạm
cõi thiêng này gã không còn chịu nổi nữa. Gã phải cãi lại:
- Chị
không được láo! Bà tôi, mẹ tôi còn là bề trên của chị…
Thế
là dì ghẻ túm lấy, dúi gã ngã lăn ra đất rồi tay thụi, chân đạp túi bụi. May
cho đời gã, được người hàng xóm tốt bụng xông vào ngăn lại không thì gã đã xuống
ngủ với giun ở nghĩa trang Hợp Thiện Quỳnh Lôi từ năm 1950 rồi, còn đâu cái đầu
ương bướng cho gã mộng mị chuyện văn chương chữ nghĩa.
Bị
người hàng xóm ngăn không thoả mãn được cuộc đánh đòn gã, khi bố gã về dì ghẻ
nghiến răng trợn mắt bù lu bù loa:
- Ới
giời cao đất dầy ơi! Quý tử nhà anh đấy, vác gậy định đánh mẹ con tôi. Mai mẹ
con tôi phải về quê thôi, còn ở đây có ngày mẹ con tôi chết mất.
Phần II
Cõi thiên đường (7)
Chẳng
cần biết mẹ phải hay con phải. Ông bố lại tẩn thêm cho gã trận đòn nhừ tử nữa.
Cũng lại nhờ anh hàng xóm mà gã thoát nạn. Vì sợ những trận đòn như đòn thù mà
gã bỏ nhà ôm cái bụng rỗng lang thang phố này qua phố khác cho đến lúc đói quá,
lả đi gục vào một mái hiên. Lúc mở mắt ra gã thấy mình đang nằm trên giường chiếu thơm tho, miệng có vị ngọt thơm của
sữa bò. Gã liếm lưỡi quanh môi để tận hưởng vị ngọt bà tiên ông bụt ban cho đêm
ấy.
- Ôi!
Cậu mợ ơi, nó tỉnh rồi.
Nghe
thế, gã co rúm người lăn vội vào góc giường, hai tay ôm chặt lấy đầu để nếu người
ta có đánh thì người đấy muốn ục, thọi chỗ nào thì thọi và ục, chỉ cần họ bớt lại
cái đầu để sau này gã còn viết văn, viết truyện!
Vợ chồng
chủ nhà nền nã trong bộ pigiama màu xanh da trời rất ăn ánh đèn và màu ve tường
nhà, họ mừng rỡ đến ghé sát tận mặt gã:
- Tỉnh
rồi hả? Chắc con đói lắm phải không? Thương quá!
Ðã bốn
năm, từ ngày mẹ mất chưa bao giờ gã được nghe những lời nựng nịu dịu dàng đến
thế. Trống ngực đã bớt đập thình thịch, nhưng gã vẫn còn sợ. Người chồng xốc
nách dậy dắt gã sang phòng ăn cho ăn bát cháo gà chị sen vừa mua khi thấy gã tỉnh
lại.
Vợ chồng
họ hỏi về hoàn cảnh gia đình, gã kể rành rõ từng sự việc, lý do vì sao phải bỏ
nhà đi. Thấy gã nói năng đâu ra đấy, thuật chuyện lưu loát, làm vợ chồng họ
thích, có cảm tình với gã ngay từ phút đầu. Người chồng bảo:
-
Hoàn cảnh của con thế thì về nhà làm gì cho khổ. Ở đây làm con nuôi cậu mợ đi.
-
Vâng.
Như sợ
hai người đổi ý, gã vâng rất nhanh.
Người
chồng là bác sĩ làm ở một bệnh viện, người vợ là giáo viên nên gia đình họ có một
phòng đọc, khá nhiều sách báo và các loại tiểu thuyết. Hàng ngày gã lấy truyện
trên giá sách đọc say sưa. Thấy gã chăm đọc sách, người bố nuôi hỏi:
- Con
học lớp mấy rồi?
- Dạ
thưa cậu con đang học dở lớp nhất ạ.
Mợ ra
mấy đề toán, đề văn cho gã làm thử. Mợ hỏi về tên những vị anh hùng lãnh đạo
các cuộc kháng chiến chống quân Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Con sông nào to và
dài nhất Việt Nam. Toán có bài gã làm đúng, có bài sai đáp số, các câu hỏi khác
gã đều trả lời trôi chảy. Mợ thử trí thông minh của gã bằng một bài toán đố mẹo:
“Có một đàn vịt bơi trên hồ nước, hai con bơi trước, bơi trước hai con; hai con
bơi sau, bơi sau hai con; hai con bơi giữa, bơi giữa hai con. Con thử tính xem
đàn vịt có bao nhiêu con”?
Nhẩm
tính một lát gã trả lời:
-
Thưa cậu mợ đàn vịt có bốn con ạ.
Cả
hai người cùng reo lên:
- Con
giỏi lắm. Mai cậu mợ cho con đi học lại.
Khi Mợ
nuôi có chửa, ông bà nội, ngoại nói với nhau trong bữa tiệc mừng:
- Con
nuôi đứng đầu số lấy “khước” vài tháng anh chị đã có tin mừng ngay. Vậy mà anh
chị cứ không tin để chậm mất bao nhiêu năm, không thì chúng tôi có cháu nội,
ông bà bên nhà có cháu ngoại sai vặt lâu rồi.
Ðường
học hành của gã như bị ma vầy, quỷ ám nên chẳng ra gì. Hồi mẹ còn sống đi học
được vài lớp đã phải nghỉ để tản cư. Về quê tản cư học nhờ trường làng, học trò
quá đông, một thày giáo dạy một lúc ba lớp khác nhau. Trên tay thày cầm một lúc
ba quyển sách giáo khoa ra bài cho ba lớp. Lớp tư thày ra bài tập làm văn, lớp
ba thày đọc cho viết bài đức dục, lớp nhì thày cho chép đề toán. Ba lớp học
chung, đông gần một trăm học sinh vừa học vừa cấu chí nhau ầm như cái chợ vỡ. Hồi
cư về Hà Nội vừa phải bế em, học buổi đực buổi cái. Lần này bố mẹ nuôi cho đi học
tiếp vẫn bị cái dớp quỷ ám ma vầy ấy ngáng trở.
Pháp
thất thủ Ðiện Biên Phủ, hiệp định đình chiến Giơnevơ chia đất nước ra làm hai
miền. Quân đội Pháp rút vào miền Nam. Cậu mợ nuôi vào làng Tây nên cả nhà di cư
vào Nam theo Pháp, họ đem gã đi theo. Sang đến sân bay Gia Lâm gặp bố đẻ gã đi
tiễn bạn, nhìn thấy giữ gã lại. Cậu mợ nuôi không muốn có sự rắc rối lúc đi xa,
bèn khuyên gã trở về với bố đẻ. Gã đành theo bố đẻ trở về sống giữa vòng lườm
nguýt, chửi chó mắng mèo, đá thúng đụng nia inh tai nhức óc một giọng:
-
Quân rong róng ngay lưng quen ăn bám váy bà, ăn tranh cơm con bà!...
Phần II
Cõi thiên đường (8)
Mấy
năm sống ở nhà bố mẹ nuôi sung sướng bao nhiêu thì nay khổ nhục bù bấy nhiêu.
Xin đi làm chẳng đâu người ta nhận, vì gã chưa đủ tuổi lao động. Bố gã đi buôn
bán xa cả tháng mới về nhà vài ngày rồi lại đi chuyến khác. Gã xin đi theo thì
ông bố bảo:
- Ở
nhà đi học.
Ði học!
Ô hô…
học! Bụt cũng không thể sống giữa tiếng bấc tiếng chì, tiếng chì chiết, miệng
đay răng nghiến như thế để mà học, mà thi cử, mà đỗ đạt! Năm 1960 gã khai tăng
tuổi đi Thanh niên xung phong gánh đất đắp đường… Ðoạn trên là quãng đời niên
thiếu của gã. Thời thanh niên ư? Còn khối chuyện cho gã viết lách dài dài…
Mặt rỗ
nhằng rỗ nhịt, sẹo to đè sẹo nhỏ nổi bờ đen như lỗ bi lỗ đáo, di chứng bệnh đậu
mùa từ thời thực dân đế quốc vãi đầy mặt Uynh. Thấy các chàng trai trẻ khôi ngô
tuấn tú, cuời vô tư, nói vô tư, yêu cũng vô tư… Uynh tức lắm.
- Tổ
cha chúng mày, cậy có bộ mặt nhẵn nhụi trắng trẻo đẹp trai một tý thằng nào thằng
ấy nhắng nhít tít mù thấy gái như mèo thấy cá rán, buông đũa buông bát là tót
sang C (đại đội) con gái để tán tỉnh. Miệng thằng nào thằng ấy còn bốc hơi sữa
nồng nặc mà đã đòi xí xớn. Ông mà được làm vua thì ông thiến cả bộ đem ninh cám
vỗ béo cho đàn lợn tăng gia trên C bộ chứ để chúng mày nhông nhông như chó dái,
khó ngăn được tội hủ hoá.
Không
làm được vua để thiến các chàng trai nhưng Uynh luồn lách ngoi lên được chức B
trưởng (trung đội trưởng) cai quản gần bốn chục con người. Cổ Uynh lúc nào cũng
đeo lủng lẳng cái còi thiếc như đeo thứ bùa hộ mệnh tôn giáo. Là người miền Bắc
nhưng Uynh luôn mặc bộ bà ba đen, cổ quấn cái khăn rằn đặc trưng Nam Bộ buông
dài thượt hai đầu khăn trước ngực, chân dận đôi dép lốp Bình Trị Thiên đế dầy bốn
năm phân cho thêm phần dã chiến, cho ra vẻ ta từng là cán bộ thời kháng chiến
đánh Pháp đuổi Nhật giải phóng cho dân nghèo, đánh đổ lũ địa chủ, tư sản chúng
bay, làm cho lũ bay hết ăn trên ngồi trốc. Chúng bay chớ coi thường tao!
Là
con nhà đạp xích lô, Uynh từng theo nghề bố ở ngõ Lò Lợn phố Bạch Mai. 1955
Uynh mới đi công trường đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan. Con đường đầu tiên được
khôi phục trên miền Bắc. Uynh ở đó liên tục cho đến 1959 thì được điều sang phụ
trách Thanh niên xung phong đi mở đường mới. Các cán bộ người miền Nam tập kết
ăn mặc quần áo thế nào, Uynh bắt chước ăn mặc thế nấy. Uynh còn giả giọng miền
Nam để loè người không biết: rằng ta đây cũng là cán bộ miền Nam tập kết cho
thêm cao giá!
Ðang
ngủ ngon bỗng cả lán giật mình thức dậy vì tiếng còi của Uynh thổi toe... toét,
toe… toét, toe.. toét toét... Mở mắt ra trời còn tối om. Xem đồng hồ thấy mới 5
giờ kém mười lăm phút. Gã bực mình bảo:
- B
trưởng ơi, bốn mươi nhăm phút nữa mới tới giờ, sao B trưởng đã báo thức sớm thế?
Giọng
cuội cuội, tỉnh bơ, Uynh nói:
- Ðồng
hồ tớ năm giờ ba mươi phút rồi. Ði ngủ đồng hồ tớ, báo thức cứ đồng hồ tớ mà dậy.
Trưa, đã quá giờ nghỉ 15 phút mà chưa thấy Uynh
thổi còi cho mọi người nghỉ. Gã nhắc:
-
11giờ 30 nghỉ, mà giờ đã 11 giờ 45 B trưởng chưa thổi còi cho anh em nghỉ. Các
B khác họ nghỉ cả rồi?
Vẫn
giọng cuồi cuội Uynh bảo:
- Lúc
đi làm đồng hồ tớ, giờ cũng đồng hồ tớ mà nghỉ!
Gã bảo:
- Ðồng
hồ của B trưởng hãng gì mà khi đi làm thì nhanh, lúc nghỉ lại chậm rề rệt vậy?
Uynh
nói tỉnh bơ:
- Ðồng
hồ Matscơva!
Gã
chê:
- Ðồng
hồ B trưởng loại vứt đi, hãng không tên tuổi. Của tôi đồng hồ Vi- le (Wyler)
Thuỵ Sĩ tự động chạy bằng nhịp đập trái tim con người lúc nào cũng đúng guýp với
giờ nhà đài tun tút. Ðồng hồ loại lên dây cót hàng ngày sánh sao bằng.
Bị gã
chê bôi, Uynh trợn mắt vừa lên lớp vừa doạ:
- Này
này, xem lại lập trường đi nhé! Hàng của tư bản mà đòi tốt hơn hàng xã hội chủ
nghĩa được à? Cẩn thận cái mồm không tống vào trại Lý Bá Sơ (14) bây giờ.
----------------------------------
(14): Lý Bá Sơ, nơi cải tạo tù hàng binh, tề nguỵ
thời kháng chiến chống Pháp, giờ là trại cải tạo Ba Sao tỉnh Hà Nam.
Phần II
Cõi thiên đường (9)
Giá
người bố nuôi hôm chia tay ở sân bay Gia Lâm đừng cho chiếc đồng hồ, cứ để gã
mù tịt về giờ giấc không biết B trưởng vặn lại giờ để bắt bốn chục con người
làm tăng giờ thì gã đâu bị B trưởng Uynh trù úm, phân công đểu, làm toàn việc nặng
nhọc. Nhiều lần, như thế, nhiều ngày như thế gã phẫn lộ bỏ công trường về thẳng.
Ðại
loại những chuyện vân lim vân lát thế chảy từ ký ức lèn đầy các trang giấy, gã
gọi đó là truyện ngắn, truyện vừa, gọt đi dũa lại hai ba lần, khi thấy vừa ý,
gã chép lại sạch sẽ gửi đến toà báo, xé bỏ bản thảo gốc, coi bản gửi đi là “tác
phẩm”, rồi chờ mua tất cả các số của tờ báo gã gửi truyện trong vòng ba tháng.
Không thấy tăm cá bóng chim các “tác phẩm” của gã được in, gã lại mua giấy ngồi
viết truyện khác. Gã có biết đâu, truyện nào gửi đến tòa soạn cũng đều rơi vào
tay một ông đọc lai cảo có thói sính con ông cháu cha. Nghĩa là nghề văn, nghề
báo cứ phải con cháu các nhà văn nhà thơ viết mới ra văn, con nhà báo viết mới
ra báo; cho dù bố có viết hộ con, ông có viết hộ cháu vẫn hay hơn văn con nhà
làm nghề khác tự mình viết lấy! Cầm đến bản thảo là trước tiên ông ta liếc mắt
nhìn tên tác giả rồi quay hỏi một câu bâng quơ chả nhằm vào ai trong phòng biên
tập. Cả phòng, đang ông thì ngáp dài, ông đang ngủ gật thả hồn vào câu thơ đang
bí vần:
- Vũ Tung là con cái nhà ai ấy nhỉ?
Sau cái ngáp dài “ới giời ơi”, ông vừa
ngáp, mắt nhắm mắt mở quay sang ông đọc lai cảo nói:
- Chắc lại con thằng cha căng chú kiết chạy
biệt lên rừng chứ văn nghệ sĩ ai đi đặt tên con tên cháu nghe như tiếng quạ mổ vào mặt trống đánh tu...uuung… một
tiếng như thế.
Rồi tất cả phòng vỗ bàn cười ha hả và họ
quăng tót “tác phẩm” của gã vào bồ rác dưới gầm bàn.
Phần II
Cõi
thiên đường (10)
Vừa
đến cổng Thiên đình, chúng tôi vướng phải một người đàn ông đầu đội thúng đơn
kiện đang cứ sấn vào đòi gặp Ngọc Hoàng. Hai thiên binh gác cổng dùng cán giáo
đẩy ra, song người đó lại sấn vào đòi:
-
Cho tôi gặp trời, cho tôi gặp ông trời, đứng ngăn tôi, các người đừng ngăn tôi.
Một
thiên binh giang chân ấn cây giáo ngang ngực người đó quát:
-
Không được, trời còn đang bận xem báo cáo các Táo quân dưới trần gian dâng lên
hôm 23 tháng chạp vừa rồi, đọc chưa xong.
-
Không cho tôi vào thì mời ông trời ra cho tôi gặp. Suốt ngày đêm ngồi trong
cung vàng điện ngọc đọc báo cáo thì làm sao tỏ rõ việc đời, lòng dân. Cái bánh
ông ban phát cho dân là cái bánh dẻo, bánh nướng đủ thập cẩm các loại nhân đậu,
vừng, lạc, lạp xường, thịt nạc thịt mỡ, mứt quả, mứt củ… gửi qua bao nhiêu chặng
công quyền, cửa ải, đến được tay người dân chỉ còn là cái bánh tẻ nhân hành rẻ
tiền nhất trong các loại bánh ở chợ quê nghèo; thậm chí chỉ là bánh vẽ! Ông có
biết không, hả ông trời? Cho tôi làm người mà không cho tôi được hưởng hạnh
phúc vuông tròn, đầy ải tôi tù tội mấy bận ghê chết cả người? Bất công… bất
công… trời mà bất công như vậy, hỏi có trời để làm gì?
-
Hỗn láo! Nhà ngươi dám mắng cả trời, sẽ bị ném vào vạc dầu đấy - Một thiên binh
nói.
-
Vạc dầu chứ đến hỏa ngục tôi cũng không còn sợ nữa, đừng có doạ. Về vật chất,
tôi đã nát mắt, nát thịt vào đất trên ba năm nay rồi, cái phần hồn mỏng manh
như có như không, quăng vào đâu chả vậy. Sợ đếch gì! Đây còn thứ đếch gì nữa mà
đòi dọa!
Nhìn
thấy tôi đi cạnh nàng tiên, cùng lúc mắt, mồm người đó mở tròn xoe kinh ngạc,
lắp bắp gọi:
-
Ơ Phong! Phong ơi! Ðằng ấy làm gì mà được lên trên này nhanh thế? Năm ngoái bốc
mộ tớ, tớ về còn thấy đằng ấy tới thắp hương cho tớ mà?
Gặp
Tận trong hoàn cảnh ấy tôi vô cùng bối rối, chẳng biết nói gì, đành đứng im
thít. May lúc ấy được Huệ đỡ lời:
-
Anh Phong vẫn là người của trần gian, chỉ lên đây chơi ít ngày thôi. Vị thế nhà
ngươi ở Âm phủ, lạc lối nào lên đây?
-
Dạ dạ! Thưa tiên nữ tôi trốn, trốn trong giày của một vị Táo quân (Táo bà), tôi
lên đây đã sáu tháng rồi. Tôi đi kiện ông trời, mà mãi không gặp được. Tiên nữ
giúp tôi gặp ông trời với. Giúp tôi!
-
Ngươi kiện trời về việc gì?
-
Kiện việc ông trời ăn ở bất công.
-
Cụ thể?
-
Ông trời cho tôi làm người lại không cho tôi được sinh con, bắt tôi tù tội,
trêu ngươi bằng cách hai thằng đàn ông chung chạ với một người đàn bà!
-
Ðợi ba tháng nữa, đọc xong báo cáo trời sẽ có thời gian tiếp ngươi.
Rồi
Huệ lôi tay tôi bước thật nhanh qua cổng trời, đi vào trong.
Chuyện
về Tận cũng một “Tấn trò đời” đáng phải kể.
Xin
kể:
Phần II
Cõi thiên đường (11)
Trước
cửa công ty sửa chữa ôtô Cát Tận (thực ra chỉ đáng gọi là cửa hàng sửa chữa ô
tô nhỏ) treo tấm bảng tin phóc mi ca trắng ghi mấy dòng chữ bằng bút dạ. Nguyên
văn: “Công ty TNHH Cát Tận cần tuyển
10 người trẻ, khoẻ, đi rải tờ rơi, lương 50 nghìn đồng/ ngày”. Ngay vài
giờ sau đó lý lịch và đơn xin việc làm tới tấp gửi đến văn phòng giám đốc Tận một
chồng dày. Tận ngồi lẩm nhẩm duyệt từng tờ đơn cho ra vẻ giám đốc, chứ chút
công việc vặt đâu cần đơn từ om sòm ghê gớm đến thế? Thuê làm việc một ngày ra
chợ lao động thoả thuận mồm cũng xong, muốn giải quyết khâu oai với thiên hạ, Tận
rùm beng ra thế. Những lá đơn xin việc đa số là của sinh viên con nhà nghèo ở
các tỉnh xa về Hà Nội học. Bố mẹ họ còn phải chờ vụ gặt, chờ lợn đẫy lứa, chờ
đàn gà lớn bán được mới có tiền gửi cho con ăn học. Con nhà nghèo muốn học được
phải đi làm thuê, đi xe ôm, hoặc bưng bê rửa bát rửa cốc cho các quán xá. Trong
số dăm chục tờ đơn gửi tới xin việc, Tận gạn đi lọc lại, chọn, tuyển ra được mười
nam thanh nữ tú, sai phó giám đốc (vợ Tận) lập bản danh sách niêm yết lên bảng
tin của CT báo cho người được tuyển dụng đến nhận “công tác” tại văn phòng công
ty. Ðiểm danh đủ mặt mười người xong, Tận dẫn họ vào văn phòng chỉ mười bó giấy
in ốp xét (offset):
- Các
bạn đem số tờ rơi này tỏa đi các ngả nội, ngoại thành rải cho bằng hết rồi về
đây lĩnh 50 nghìn đồng ngon ơ! Một là: Các bạn tìm đến những khu nhà biệt thự,
những gia đình có ôtô thì nhét vào cổng nhà cho họ. Hai là: Bỏ vào các xe ôtô
nhỏ, ôtô to khi gặp họ đỗ trên đường. Ba là: Tìm đến các bãi gửi xe phát cho mỗi
rọ xe máy một tờ. Bốn là: Ðến các ngã nút ngã tư, xe dừng chờ đèn đỏ mà phân
phát cho bằng hết những tờ quảng cáo này đi. Nào, mời các bạn lên đường.
Mười
chàng trai cô gái khệ nệ ôm mỗi người một bó giấy đi xa rồi, Tận quay vào phòng
giám đốc ngả người xuống salông
vơ bao thuốc lá ba số 5 rút một điếu bật xoẹt bật lửa ga châm thuốc rít một hơi
rõ dài phả khói bay mờ mịt. Trong làn khói thuốc bay chờn vờn hiện ra một đoàn
dài xe ôtô hỏng đang xếp hàng chờ vào công ty Cát Tận để sửa chữa mà sướng rơn đôi mắt, sướng rộn tinh thần.
Cuộc mơ của giám đốc Tận đang tới hồi cao trào tưng bừng thì có tiếng chuông điện
thoại réo reng reng. Tận nghĩ thầm: “chắc anh nào vừa nhận được tờ rơi có xe bị
hỏng liên hệ với mình để sửa chữa đây”. Tận oai vệ đứng dậy chộp lấy máy điện
thoại áp lên tai:
- Hế
lô ô ô…!
Tiếng
người đầu máy bên kia:
- Cho
tôi gặp giám đốc công ty TNHH sửa chữa ôtô Cát Tận!
-
Tôi, giám đốc đây.
Tiếng
đầu máy bên kia:
- Mày
là thằng chó đểu...!
Phần II
Cõi thiên đường (12)
Có lẽ
từ khi loài người sinh ra máy điện thoại, trên thế giới chưa ai đủ kiên nhẫn cầm
máy nghe chửi đến câu thứ hai bao giờ. Tận dập máy đánh choác, rất nhanh.
Người vừa gọi điên thoại cho Tận cũng thuộc dân mới phất do trúng mánh đánh quả, hoặc viên quan chức biến chất “thuổng” được món tiền to của nhà nước giàu bật lên vừa mua được chiếc ôtô đang chạy rốt đa (rodage) cho thuần máy, kết hợp đưa vợ con đi diễu phố để khoe cùng đường cho thiên hạ biết mặt. Tính cách người Việt cũng lạ, vừa xây được cái nhà mới là mời bạn bè, người thân ăn tân gia, mua được xe thì mới nhau ăn khao. Văn hóa ăn khao (tiếng lóng là rửa nhà, rửa xe) đang được khôi phục tràn lan trên mọi phương diện cuộc sống ngày nay tưng bừng đây đó, cẩm như đám chức dịch sau lũy tre làng ngày xưa!
Trong
khi chờ vợ con vào chơi công viên, gã đứng ngoài “tự giữ lấy ôtô”. Con xe mới
không có người trông giữ, lỡ những đứa vô ý đi qua quệt xước sơn thì xót lắm! Kẻ
cắp nữa chứ! Mà cái giống kẻ cắp xứ này cũng khố rách lắm cơ. Lấy cắp cả xe
không dám, sợ bị bắt, bị tù - không chơi! Lũ dặt dẹo khố đỉn ấy chuyên lấy cắp
lặt vặt, đánh nhanh rút gọn chảo chớp cho an toàn. Cứ gương phản chiếu, pha đèn
tiền, đèn hậu vặt đem ra chợ giời bán lấy tiền tươi để ăn nhậu. Nếu ngon xơi, mở
được cửa xe thì khoắng bên trong xe được cái calatáp mới gọi là trúng quả to.
Có xe không đứng trông, mất gương, mất đèn như bỡn, có ra chợ giời mà “tìm” lại.
Ðứng
một mình buồn, trông thấy một bóng hồng váy ngắn điệu nghệ cưỡi xe @ (A còng)
lướt vào bãi gửi xe làm gã nổi máu sĩ muốn khoe hơn, nhưng chưa biết khoe thế
nào cho ra vẻ ta đây hơn em váy ngắn kia cả một con xe ôtô mới, gã liền ứng khẩu
một câu bảy chữ: “Váy em ngắn
quá lộ đùi ra”. Vẫn bị em
không thèm để ý, thế có chán không. Khi quay lại đã thấy một nắm tờ rơi cài
trên gạt nước kính trước, gã liền rút ra xem. Nguyên văn tờ rơi viết: “Cát
Tận - Công ty sửa chữa ôtô xin
kính chào bạn. Các bạn đã có ôtô thì yên tâm đi, khỏi lo chi cho mệt đầu, phí
thì giờ mà nghĩ! Cho dù xe bạn đấu đầu nhau,
tạt sườn, hôn gốc cây, có lăn vực sâu, hoặc xe chạy lâu ngày cũ nát, máy
móc hỏng hóc, mui thủng, gầm long, kính vỡ, lốp mòn, điện, cơ trục trặc… thì mời
bạn đem ngay đến công ty sửa chữa ôtô Cát Tận ở số nhà 39000,
phố Lưa Văn Ðao. Chúng tôi, với đội ngũ thợ lành tay nghề, kinh nghiệm lâu năm,
sẽ làm cho bạn hài lòng. Xe bạn là xe Nhật: sẽ mới lại như xe Nhật; xe bạn xe Mỹ:
sẽ mới như xe Mỹ; xe bạn là xe Ðức: lại mới nguyên như xe Ðức; xe bạn là xe
Nga: mới lại y xì xe Nga một trăm phần trăm luôn!”. Dưới những lời đầy ấn tượng kể
trên là bức ảnh chụp chiếc xe con bẹp rúm ró đứng bên chiếc xe vừa được đại tu
bóng lộn, sáng loáng long lanh, ý rằng công ty Cát Tận sau khi mông má “xe bạn”
lại đẹp như thế đấy, ngon lành chưa! Tờ rơi còn có ảnh giám đốc Cát Tận diện
com lê cà vạt lịch sự đứng giữa tốp thợ. Ảnh màu như thật, nên trông đám thợ
chưa anh nào quá tuổi hai lăm mà đã... lành tay nghề, kinh nghiệm lâu năm, quả
là chuyện bố tướng thời…quảng cáo. Quảng cáo bây giờ tán bùi tai đến nỗi con
cáo trong hang phải chui ra cho các đại gia đưa lên thớt băm, chặt!
Phần II
Cõi
thiên đường (13)
Với
cái đầu ẩm ướt dị đoan thái quá, ra ngõ gặp gái là sợ giông, sợ hãm tài, sợ đi
xa không gặp may, làm không được việc, khi đọc thấy tờ quảng cáo toàn nói về
tai nạn xe cộ làm gã ghê hết cả người. Gã ý ra rằng tờ rơi nói toàn điều độc mồm
độc miệng. Hãm!
- Mẹ
cha nó chứ! Con xe của bố vừa mua chạy chưa được nghìn ky lô mếch, đứa chó nào
đem giắt mấy tờ giấy khốn nạn vào nói toàn điều xúi xẻo thối tha, ám quẻ!
Gã nhổ
phì bảy bãi nước bọt ra bảy phía chung quanh xe, quẹt bật lửa đốt cháy mấy tờ
quảng cáo hơ đi hơ lại vòng quanh xe để đốt vía, giải xúi. Rồi gã rút điện thoại
di động theo số máy trong tờ quảng cao gọi đến công ty Cát Tận mà chửi. Chưa chửi
hết câu phía đầu kia đã cúp máy đánh cạch…
Xưa Tận
từng là “cán bộ” nhà nước, “cán bộ” bảo vệ và từng thông đồng với “cán bộ” lái
xe và “cán bộ” thủ kho lấy cắp
sợi của xí nghiệp. Sợi chở về nhập kho, lái xe và thủ kho chỉ nhập kho hai phần
xe, còn một phần ba để lại trên xe, qua cổng bảo vệ, bảo vệ Tận đã “bảo vệ” cho
lái xe qua cổng an toàn đem sợi đi bán cho con phe lấy tiền chia nhau. Ăn ngon
với nhau vài chuyến trót lọt, đến chuyến thứ tư bị công an kinh tế tóm được
ngay nơi đang tiêu thụ, thế là cả ba ông “cán bộ” dắt tay nhau vào trại giam, mỗi
ông ngồi bóc giúp nhân dân anh hùng năm bảy quyển blốc lịch. Vợ Tận là Thị Mơ ở
nhà thành ra túng thiếu, đành tính chuyện cặp bồ với anh trưởng cửa hàng lương
thực để “vay” gạo về ăn và tiếp tế cho chồng.
Thấy
thủ trưởng xuất gạo của kho cho tình nhân “vay” được, các nhân viên khác cũng
“học tập” gương thủ trưởng... Vô tư đi, gạo nhà nước kho đầy kho vơi tội gì
không lấy về mà ăn, cho người nhà vay ăn cho sướng miệng. Thủ trưởng cho vay,
thủ phó cho vay, nhân viên cho vay, “vay” đến nỗi cửa hàng hết nhẵn gạo bán cho
dân.
Thời ấy,
thời bao cấp, mỗi nhà được phát một quyển sổ để mua gạo. Sổ quy định mua ở cửa
hàng nào thì cứ nơi đó mới mua được, đi mua cửa hàng khác có mà vác rá về
không. Cửa hàng gạo của tình nhân Thị Mơ tháng này qua tháng khác gối đầu nhau
nợ gạo dân. Vác sổ ra cửa hàng là thấy treo tấm biển: " Gạo chưa về". Vậy mà cửa hàng ấy
vẫn sơ kết hoàn thành kế hoạch sáu tháng đầu năm, trống rong cờ mở, khẩu hiệu
căng đỏ từ trong chí ngoài "Cửa hàng ta, kho ta hoàn thành vượt mức kế hoạch
toàn năm…". Bình bầu toàn là tiên tiến, cá nhân tiên tiến, chiến sĩ thi
đua... Chỉ thiếu ít thành tích... cho “vay” không đòi lại được nữa là được
phong đơn vị đứng đầu ngành có nhiều thành tích nhất. Có thưởng, có phê bình
rút kinh nghiệm từng ưu khuyết điểm từ cán bộ cho đến mỗi nhân viên đầy đủ lắm
mà không hiểu gạo nó cứ bay lên trời hay độn thổ đi đâu mà thiếu nhiều gạo thế
không biết nữa? Cấp trên về thanh tra vã mồ hôi hột. Cộng sổ nhập, trừ sổ xuất
hàng tháng trời mới phát hiện ra cả một tập thể đồng lòng cho “vay” sạch cả kho
gạo!
Hậu
phương miền Bắc đang dốc sức người sức của để chi viện cho chiến trường miền
Nam đánh Mỹ, gạo không thiếu một cân, quân không thể thiếu một người mà họ lỡ
làm ăn ba rọi ba láp thế, có đem họ ra bắn, nhân dân anh hùng cũng chư
Phần II
Cõi thiên đường (14)
Trước
khi “nhập tịch” trại cải tạo, cửa hàng trưởng cũng kịp tặng cho Thị Mơ một cục
cưng tròn xoe xoe trong bụng. Giá đừng có cục cưng ấy, Thị Mơ còn có cơ cặp
tình nhân với cửa hàng trưởng khác để “vay” gạo về ăn. Buồn nỗi nhân tình thế
thái nó lại cứ thế thái... chẳng một chút nhân tình! Đời nào những thằng sôi
máu sơn dương chịu cặp tình nhân với con mẹ bụng đang chửa phềnh phệnh. Hết
cách kiếm ăn. Bụng mỗi ngày một to vượt mặt. Tiền hết, gạo không, chồng ở tù,
tình nhân tù ở, chẳng ai ở lại trông hòm gạo rỗng cùng Thị nữa, chán mớ đời
chưa!
Ðôi
tình nhân đó, người ăn cắp gạo kho, người ăn no gạo “vay” dự trữ được nhiều chất
bổ âm, bổ dương, tỉnh tình tinh với nhau cho ra đời thằng cu cũng khá là kháu
khỉnh. Khi đẻ thằng cu không còn gì ăn, xung quanh hàng xóm phải “lá lành đùm
lá rách”, khối phố vận động người
biếu bơ gạo, người tặng nắm mỳ, người giúp mớ rau, người cho quả trứng. Thời ấy,
thời bao cấp, lại đang chiến tranh nên nhà nào nhà ấy kinh tế chỉ sàn sàn nhau,
ai biết dè sẻn thì thừa ra chút đỉnh, nên lòng tốt chỉ giới hạn bằng bơ gạo, nắm
mỳ, tấm lòng với nhau vậy là quý lắm rồi.
Cuộc
sống quẫn bách, thị Mơ đành bán nhà ở khu phố chính, mua ra phố giáp ranh ngoại
thành. Thị Mơ ra hai cái lợi. Lợi thứ nhất, tránh được tai tiếng chửa hoang, lợi
thứ hai, dư ra ít tiền để nuôi mình, nuôi con chờ anh cửa hàng trưởng đi tù về
làm cửa hàng trưởng tiếp cho Mơ “vay” gạo!...
Bóc vừa
hết bốn quyển lịch cho trại cải tạo, Tận được tha về. Về nhà thấy có cu bé
ngoan ba tuổi bi bô gọi mẹ, Tận hỏi vợ:
- Thằng
bé này đâu ra?
Thị
Mơ ngọt xớt:
- Em
xin trên cây đa Nhà Bò! (nhà hộ sinh cây đa Nhà Bò quận Hai Bà Trưng Hà Nội).
Cả Tận
và hàng xóm nơi ở mới đều tin sái cổ việc “Em xin ở cây đa Nhà Bò” được thằng
cu con kháu khỉnh quá... bố nó thích chưa?
Chẳng
hiểu “giống má” nhà Tận kém cỏi, trục trặc kỹ thuật, hay kiếp trước Tận xử ác với
trẻ con nên kiếp này trời cấm cửa các chàng Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, các nàng Mỵ
Nương, Ngọc Hoa công chúa, không cho họ xuống núi đầu thai vào nhà Tận? Cũng
may Thị Mơ “xin” được trên cây
Ða Nhà Bò một thằng cu con mơ ước cho tận, không thì....
Ði tù
về Tận định xin đi làm “cán bộ” bảo vệ tiếp. Sao có được! Bị một cái, Nhà nước
đã sợ tái đến già, ai còn dám gửi trứng cho ác một lần nữa.
Một bạn
tù từng là thợ sửa chữa ôtô cũng mắc tội thó vật tư quý hiếm của nhà máy “cung ứng”
cho chợ giời bị bắt, bị ra toà đi bóc lịch cùng trại với Tận. Tù về, thất nghiệp
đang lêu têu, thấy Tận có nhà mặt đường bèn hùn vốn mở tổ dịch vụ bơm vá xăm lốp
ôtô chung.
Lốp
xăm gì mà lại cứ phải chạy đến đúng tổ dịch vụ của Tận mới xì hơi để cho hai
người bơm vá liên tục?
Phần II
Cõi thiên đường (15 )
Thì
ra anh cả thó, thông đồng với anh tiêu thụ, rút ruột từ kho nhà nước để cùng
nhau làm giàu. Từ hình thức bơm vá săm lốp ôtô thuần tuý, biến tướng thành nơi
tráo đổi lốp cũ lấy lốp mới để lái xe ăn chênh lệch được khối tiền bỏ túi
riêng! Sau khi tráo đổi xong, nhét nắm tiền vào túi, anh tài xế nào cũng nói một
câu giống hệt nhau:
- Có
tổ dịch vụ của “đồng chí” tiện lợi cho cánh tớ quá cơ! Cảm ơn “đồng chí”!
“Đồng chí “gí” với “đồng bào”
Đẻ
ra tiền bạc thằng nào chẳng mê”!
Bác
thừa can xăng hử? Ðể đấy em tiêu thụ hộ. Bác “xin” cơ quan được cái bánh xe cũ
hả? Ðể em đưa ra hàng dép lốp cho họ “làm thịt” hộ. Bác “thừa” cái kích chứ gì?
Có người đang cần, nhờ chúng em tìm mấy tháng nay... Tinh thấy em “hộ” bác, em
“giúp” bác mà bao nhiêu phụ tùng xe máy, ôtô các loại, cả mới lẫn cũ từ các kho
nhà nước “tập kết” ra các tổ dịch vụ để rồi từ đó trung chuyển ra chợ giời hàng
dãy dãy dài mải miết!
Ba
mươi năm chiến tranh, đất nước đang nghèo. Bọn người cá nhân, ích kỷ này lúc
nào cũng sẵn như ruồi, vì chúng mà đất nước hoàn cảnh, đã nghèo lại nghèo thêm.
Chuyện
về Tận có thể tạm dừng ở đây được. Nhưng đời luôn có những sự trớ trêu của nó,
ta muốn thế này con tạo lại vần xoay ra thế khác để mua vui trên cõi tạo hoá, để
hành hạ kiếp người.
Vị trưởng cửa hàng gạo hết
hạn tù về có tên là Vi. Vi thân bại danh liệt, đứng trước ngôi nhà xưa giờ
không còn là của mình nữa. Sau khi Vi đi ở tù, vợ Vi đem hai đứa con ấn trả bố
mẹ Vi ở quê, bán tắp ngôi nhà rồi đem tiền đi theo gã đàn ông khác. Gã đàn ông
khác đó trước đây từng bạn thân của Vi từ thời nếm mật nằm gai ở chiến khu mới
đau chứ. Khi Vi đi tù, người bạn luân đến thăm nom “chăm sóc” giúp đỡ vợ con
Vi. Lửa gần rơm lâu ngày cùng bốc! Họ
quyến luyến nhau dẫn đến bên bỏ mặc chồng tù tội, bên bỏ mặc vợ với đứa
con tật nguyền dẫn nhau đi nơi khác để xây tổ ấm mới, hưởng hạnh phúc mới bất hợp
pháp với nhau. Hai đứa con của Vi ở quê sau đó bị chết cùng ông bà nội trong một
trận máy bay Mỹ đánh lạc mục tiêu, bom rơi vào làng, nuốt chửng ngôi nhà ngói
năm gian bố mẹ Vi xây bằng tiền của Vi gửi về thời Vi làm cửa hàng trưởng lương
thực. “Ðồng tiền không mất mồ hôi nào có ra gì, không bền lâu được!”. Ấy là lời
người làng họ nói sau trận bom như thế...
Hai
bàn tay trắng, không nhà cửa, không vợ con, bạn bè cánh hẩu ngày xưa chén chú
chén anh là thế, giờ thấy Vi đến thăm đều nhạt thếch, rót chén trà sái bã mời
xong tìm cách…chia tay. Vi đau lắm, đau về cái sự đời đen bạc. “Ta quyết phải
làm lại từ đầu để trả hận về nỗi đau này”. Vi nghĩ thế. Nhưng giữa thời buổi
dùng người thẩm tra kỹ từ chân tơ kẽ tóc, với bản lý lịch dạng đi tù về như Vi
còn xơi mới được làm lại cán bộ để mà trả “mối hận”! Sẵn trí khôn di truyền từ
bác nông dân dùng mưu trói hổ, Vi về quê dựng nhà trên hố bom nơi đất của cha mẹ
ngày xưa để ở tạm đã, rồi tính.
Ở quê
một thời gian Vi nghĩ ngay được cách làm ăn bằng việc xay sát thóc gạo bằng máy
chạy dầu diesel thay cối xay cối giã thủ công. Làm dịch vụ cộng với việc chăn
nuôi gà lợn đã giúp Vi có bát ăn bát để sau đó vài năm. Nhưng Vi vẫn không mặn
mà với cuộc sống nơi quê hương cho lắm. Bởi, “giàu nhà quê không bằng kéo lê
thành phố”. Bởi mùi vị thị thành đã bén vào tim gan tỳ vị của Vi một thời.
Phần II
Cõi
thiên đường (16)
Sống
độc thân, dần dà ngấm nỗi cô đơn, ngấm nỗi hận đời do người vợ bạc tình gieo
vào đời Vi. Mà hình như cuộc đời này có vay có trả thật. Nếu như Vi cứ chịu yên
phận làm anh cửa hàng trưởng cửa hàng lượng thực liêm khiết thì đời Vi lẽ nào
ra nông nỗi này? Làm thằng đàn ông đang dư sức “chiến đấu” mà chịu cảnh cô đơn
trói buộc thì thật vô lí. Mà ở cái đất nhà quê này có tiền có của cũng không
dám tự do ăn chơi, bồ bịch, lãng tử, mây bay gió lượn như ở thành phố. Giỗ chạp,
Tết nhất mới dám vặt con gà để, trước cúng sau ăn, nếu tự nhiên đem gà ra cắt
tiết mà hàng xóm ngó thấy thì ầm làng ngay. Rác tai không chịu được.
Vi giải
tán đàn gà, lợn, giao lại nhà cửa, máy móc cho một người bà con kinh doanh tiếp.
Vi xách chiếc ba lô lộn ngược trở lại thành phố để “khai phá” lại cuộc đời thêm
lần nữa xem sao. Ở quê thời gian qua đã làm Vi chán đến mang tai. Ra đi lần này
không phải bằng hai bàn tay trắng của anh nông dân đi tham gia kháng chiến ngày
nào, mà Vi giắt lưng một số vốn đáng công để có thể ngồi tính đếm đã tích cóp
được từ quê.
Ðang
lang thang trên phố để tìm nơi ở thì bất ngờ Vi gặp lại Thị Mơ người tình vay gạo
năm xưa. Họ rủ nhau vào quán càfê để tâm sự. Rồi từ hôm ấy hai người lại xoắn
xuýt lấy nhau không rời tại các nhà nghỉ, khách sạn. Thị Mơ về nhà bàn với chồng
rằng thị có người anh họ ở quê muốn xin việc làm, đằng nào tới đây nhà mình
cũng thuê một bảo vệ để bảo vệ nhà, xưởng, cửa hàng; đi thuê người ngoài cũng vậy,
thì thuê người nhà mình còn hơn. Thị Mơ phân tích nghe có lý, Tận tán đồng quan
điểm của Mơ ngay. Từ đó Vi giữ chân “bảo vệ” cho công ty trách nhiệm hữu hạn
Cát Tận đến khi Tận dính “Chưởng” móc ngoặc số lượng lớn xăm lốp và phụ tùng xe
ôtô từ kho nhà nước tuôn ra, bị ra toà, cả một đường dây móc ngoặc theo nhau
vào tù. Tận bị bệnh đau ruột thừa cấp tính chết trong trại giam. Ở nhà, Vi nghiễm
nhiên lên làm ông chủ cả đống của cải và người đàn bà trong mộng. Cũng vì thế mới
có việc đi kiện trời của Tận mà tôi và Huệ gặp trước cổng trời đã kể ở trên.
Phần II
Cõi
thiên đường (17)
Tôi đang lơ ngơ ngắm ngó từng đoàn khách nhà trời, người
ngồi xe mây, người cưỡi rồng, người cưỡi hạc, cưỡi cá chép, cưỡi kì lân... đang
lũ lượt đi qua cổng trời thì một tiên nữ cầm tay một người đàn ông bỗng hiện ra
trước tôi và Huệ, với một câu chào thân tình như quên biết nhau từ lâu:
- “Em chào anh, em chào chị”!
Không
những câu chào nghe quen quen mà cả người đàn ông đi cùng nàng trông cũng quen
quen. Tôi đang ngẩn người ra để định hình lại trí nhớ về người đàn ông này thì
Huệ nói:
- Anh Phong không nhớ cô em này à? Hôm trước em nó đến
bãi cây xấu hổ, nơi các hài nhi hành tội những người cha đau khổ của chúng mà
anh đến xem đó thôi. Rồi em nó mượn xe để đi chơi với anh Minh đây mà.
Tôi vẫn tỏ ra không hiểu. Huê giải thích thêm:
- Anh còn được nghe chú bé thiên thần đọc thơ tiền tiền
nữa. Không nhớ sao?
Cũng lúc ấy tôi và người đàn ông kia cùng nhận ra
nhau.
Tôi thì thốt lên: – “Minh à”! - Người kia cũng: -“Phong
à”!
Gương mặt Huệ tươi hẳn lên và tỏ ra rất vui, nói:
- Hóa ra hai chị em em có duyên tiền định với hai anh
chứ! Nhỉ !
Rồi Huệ giới thiệu:
- Đây là Nhàn, em gái em.
Tiện thể tôi cũng nối lời: - Đây là Minh, người
cùng phố với anh thời nhỏ.
Huệ bảo:
-
Em Nhàn cũng xuống trần một thời gian nhưng em nó vướng phải mớ bòng bong trần
gian khố quá anh ạ!
Tôi
hỏi Huệ:
-
Nhàn cũng là lính à? Ở đơn vị nào vậy?
Huệ
trả lời:
-
Không ạ! Trước khi vào dự tiệc,
chúng ta xem chuyện về Nhàn và anh Minh nhé!
Nói xong, Huệ lấy Gương Quá Khứ Hiện Về
ra. Trong gương hiện ra dòng tên truyện:
KẺ CƠ HỘI HẾT CƠ HỘI
Trời còn nhọ nhem chưa tỏ mặt rừng, lũ chim liếu điếu lắm lời đã
kéo đến cây sấu đầu lán cãi nhau inh ỏi làm Minh tỉnh giấc. Nằm nguyên trong
màn khởi động chân tay. Cái phản một, ghép ván mỏng kêu cọt kẹt. Nổi hứng Minh
buột mồm hô:
- Một
hai một, dậy đi anh em ơi!
Tiếng ai đó cự nự nghe
không rõ. Tiến mằm phản bên choảng một câu:
- Câm mõm đi, Chủ nhật được nghỉ để anh em ngủ thêm tý, mở mắt là
mở mồm, quang quác như quạ khoang ngửi thấy mùi thây người chết thối trôi sông ấy!
Bị cụt hứng, Minh tung màn nhảy đại ra sân tập thể dục một mình.
Màn sương trắng là là bồng bềnh phủ kín những ngọn núi, cánh rừng
trước mặt. Hà Nội sau những đồi cà phê, đồi chè mới trồng kia mà đi ô tô, tầu
hoả từ sáng sớm đến tối mịt mới tới nơi. Ước gì có đôi hài nghìn dặm để Chủ nhật
về ăn cùng mẹ bữa cơm, tối lại lên kịp để sáng Thứ hai đi làm thì sướng biết mấy.
Vừa tập thể dục Minh vừa nghĩ vẩn vơ trong đầu lòng Minh rộn lên nỗi buồn nhớ mẹ,
nhớ nhà.Tức khí Minh quăng nỗi buồn lên núi, nhảy đại vào lán giật màn Tiến xuống,
kéo chân Dũng, co tay Hoài bắt ba người bạn ra suối đánh răng cùng. Nghỉ Chủ nhật
chẳng biết chơi gì, làm gì, vui gì giữa rừng sâu hoang vắng sau sáu ngày làm việc
vất vả, rỗi rãi là sinh thèm ăn. Họ rủ nhau tìm anh Hồ Nâu, kéo anh ra suối nơi
có vực nước sâu hườm vào một lèn đá biếu anh mấy bao thuốc lá Đồ Sơn rồi vẽ xuống
mặt cát mịn một vòng tròn. Nhìn cái vòng Minh vẽ anh lắc đầu giơ ngón tay vẽ
vào không khí ý bảo vẽ nhỏ đi. Minh xoa tay xuống mặt cát xoá hình vẽ trước, vẽ
thu cái vòng nhỏ lại.
Anh Hồ Nâu lắc đầu:
- Dưới lớ hổng có con mô to rứa!
Minh vẽ thu cái vòng tròn nhỏ hơn. Anh Nâu gật gật rồi cởi áo nhảy
ào xuống suối lặn biến vào dòng nước trong xanh làm toé lên những vòng sóng đuổi
nhau tan nhanh vào hai bên bờ cát biến mất. Bốn con sâu gắp hau háu đứng chờ.
Lát sau mặt suối sủi sục, đầu anh lao vọt lên, một tay vuốt nước trên mặt, một
tay anh giơ cao con ba ba, ngón tay cái, ngón tay trỏ của anh móc chắt hai hốc
chân sau con ba ba, còn lại hai chân trước con ba ba đạp lấy đạp để, và cái đầu
thò ra hết cỡ ngoặt cổ lên lưng như muốn tìm tay anh cắn miếng để thoát thân.
Nhưng với người nhiều kinh nghiệm bắt ba ba như anh thì sự cựa quậy, rẫy đạp của
nó chỉ vô ích. Hai chân anh đạp nước như con ếch bơi, bơi vào bờ đem con ba ba
ướm vừa khít cái vòng vẽ trên cát rồi ngước nhìn mọi người bằng nụ cười rất
tươi. Cam đoan rằng chưa nhà văn hay hoạ sĩ nào tả, vẽ nổi nụ cười vô tư và
tươi hơn nụ cười của Hồ Nâu lúc ấy. Đôi môi nở toé ra hai hàm răng trắng muốt,
trông miệng cười ấy liên tưởng như một vầng dương toả nắng ban mai. Tính một
con không đủ bốn người ăn, họ lại bảo nhau góp thuốc lá nhờ anh lặn bắt thêm
con nữa. Anh Hồ Nâu nghiện thuốc lá vào loại nặng, trừ lúc làm việc, luc ngủ
còn thì điếu thuốc lúc nào cũng ngật ngưỡng trên môi nghi ngút khói vờn.
Phần II
Cõi
thiên đường (18)
Anh Nâu là người Thượng tập kết ra miền Bắc sau hiệp hiệp định
đình chiến Gơnevơ, năm 1954 . Đặt chân lên đất Bắc anh được đưa về trường bổ
túc công nông Giáp Bát, Hà Nội học bổ túc văn hoá. Ba năm ninh văn nấu toán anh
chỉ lấy nổi bằng lớp 7 đỗ vớt do ưu tiên người miền núi tập kết. Trong khi những
người cùng học đều tốt nghiệp cấp 3, người vào đại học, người đi học nước
ngoài. Không rõ do tắc trách từ khâu nào mà anh bị rơi tõm vào tập đoàn sản xuất
MN, tâp trung toàn những người lý lịch chưa rõ ràng về thân nhân. Những người là
tề, điệp, trước khi tập kết từng làm việc cho chính quyền Pháp ở một số địa
phương miền Trung, miền Nam. Lúc tập kết ra miền Bắc, các địa phương trong đó
ép họ đi theo để giữ bí mật cho lực lượng ém lại, nằm vùng trong đó hoạt động
khỏi bị lộ. Tàu Ba Lan đổ tất cả lên bãi biển Sầm Sơn. Bộ đội có đơn vị bộ đội,
cán bộ các dân chính, đảng thì tỉnh nào theo quân số tỉnh, huyện, xã đó nhà nước
phân công về các cơ quan, các ngành nhận công tác, còn trơ lại số tề điệp bắt
buộc đi tập kết, đang chờ chủ trương từ cấp trên. Ban đón tiếp lập danh sách ai
ở tỉnh nào theo tỉnh đó, cứ tỉnh ngoài Bắc kết nghĩa với tỉnh trong Nam đưa về tỉnh
đó cho anh em kết nghĩa đùm bọc nhau.
Là những tên tay sai hạng bét trong bộ máy hành chính cấp xã của
chính quyền tề nguỵ thời 1946 -1954, học không hay đi cày sợ bùn lấm, nửa đời sống
nghề do thám, chỉ điểm kiếm miếng bánh Tây quăng, bơ thừa sữa cặn, lưng ngay
thuồn thuỗn, biết xếp họ làm việc gì cho phù hợp. Trong khi miền Bắc còn bộn bề
trăm công nghìn việc sau chiến tranh, việc nào cũng quan trọng cả? Thôi, người
ta “tập kết” ra đây thì tất tật đều là người của kháng chiến, yêu nước cả! Họ tự
khai mỗi người một bản lý lịch “bịa” rất chi nhiều "thành tích". Cũng
cống hiến cho cách mạng, cho kháng chiến cả đống công lao mùi mẫn như giọng ca
bài chòi, cải lương họ thường ngâm nga những lúc nhớ nhà, nhớ vợ con trong rứa.
Người này từng giữ chức này, kẻ kia từng làm tước nọ khá oai hùng cho kháng chiến!
Tỉnh lưu họ lại nhà khách của tỉnh cho họ an dưỡng và học thêm chính trị để
nâng cao và củng cố tinh thần cách mạng vô sản cho bài bản... thì cách sống
buông thả lưu manh lính tẩy trong con người họ trỗi dậy liền ngay. Rượu chè bê
tha lướt khướt, ê a ba câu bài chòi, cải lương rẻ tiên tán gái, tranh yêu với
đám con trai ngoài phố đánh ghen náo loạn cả cái thị xã yên tĩnh bên một dòng
sông vốn xưa nay yên ả, êm đềm. Tỉnh đành cấp kinh phí làm lán trại dưới Bãi
Lai cho họ xuống khai hoang trồng trọt, và lập thành tập đoàn sản xuất MN. Hai
năm đầu tỉnh bao cấp từ A đến Z, sang năm thứ ba đi vào tự lực. Làm được một
cân sản phẩm họ đòi ba lần quyền lợi. Hết chịu nổi, tỉnh đành nhập tập đoàn đó
vào nông trường Sông Thu. Nông trường sông Thu đang làm ăn có lãi, khi nhập
thêm họ, lỗ vốn liền tay. Một đội trên ba trăm con người, lương tháng lĩnh đều
đều mà sản xuất không ra sản phẩm. Trồng mía hoá lau, trồng củ tía ra củ nâu. Tỉnh
cùng nông trường khắc phục hậu quả bằng cách chia đều cho mỗi đội sản xuất vài
chục vị.
Anh Hồ Nâu là cán bộ kháng chiến thực thụ, thương tích đầy mình,
thành tích cũng đỏ ngực. Anh thích cuộc sống hoang giã nên anh dựng cái nhà sàn
nho nhỏ cạnh khu tập thể. Muốn ăn cá đêm
xuống suối rọi đèn pin chém cá, thích thịt chim thì vác nỏ vào rừng săn chim;
muốn ăn thịt chồn, thịt cáo anh đặt bẫy. Ba ba nhờ anh bắt nấu chuối xanh, đậu
phụ, thịt ba chỉ cùng các thứ rau gia vị ngon hết chê anh cũng không ăn.
Anh bảo:
-Tau ăn con ni chạy nhà cầu
không kịp.
Những chàng trai, cô gái Hà Nội tình nguyện đi xây dựng kinh tế,
văn hoá miền núi, tất cả đều tuổi mười tám đôi mươi háo hức đem sức trẻ đến nơi
gian khó để cống hiến cho đất nước. Họ sống hồn nhiên, làm việc vô tư: khai
hoang, đào hố, gánh phân, trồng cà phê, trồng chè, trông sắn... việc gì cũng
xông pha làm tất tật theo lệnh cái kẻng bằng quả bom lép gõ từng hồi vang khắp
rừng khuya núi vắng.
Keng keng... một hồi ba tiếng, con trai con gái từ trong các lán
trại vùng dậy tập thể dục.
Keng keng... ba tiếng kéo nhau đi ăn sáng một bát ngô mảnh không
ra hấp, chẳng phải bung, nhai sái quai hàm mới nuốt nổi.
Một hồi chín tiếng, cả đội vác dao vác cuốc ra lô ra ruộng làm việc.
Keng keng... chín tiếng về nghỉ trưa.
Keng keng... năm tiếng mọi người vác bát đũa xuống nhà ăn sáu người
một chậu men cơm, đã độn ngô mảnh còn cõng thêm sắn tươi thái lát. Thức ăn thì
trưa đu đủ xào, chiều cà lào
luộc (tiếng Sán Chỉ gọi quả đu đủ là Cà Lào). Sinh hoạt kham khổ thế họ vẫn sống
vẫn làm việc say sưa hết mình. Tháng bốn chủ nhật chỉ đuợc nghỉ hai. Chủ nhật
này lao động X.H.C.N. Chủ nhật tới được nghỉ, chủ nhật sau tới làm để ủng hộ...
có đến 101 lí do Chủ nhật lao động ủng hộ vẫn vô tư!...
Phần II
Cõi
thiên đường (19)
Quê hương “Chị hai năm tấn
quê ở Thài Bình” gửi lên nông trường
một đoàn nam nữ cháu chắt các lão nông ngày xưa theo cụ Nguyễn Công Trứ mở đất
ra biển, nay lên mở đất trên rừng. Trong đó có Nhàn. Ngay buổi họp mặt mới cũ vừa
thấy Nhàn lòng Minh đã xốn xang. Trong mắt Minh, Nhàn là cô gái đẹp. Đôi mày
cong cong thanh tú, đôi mắt huyền nhung lóng lánh trên khuôn mặt trái soan đầy
đặn, hây hây đôi má hồng. Bình thường khuôn miệng Nhàn nhỏ xinh, khi nàng cười
miệng rộng mở tôn nụ cười thêm quý phái, hai núm đồng tiền khi ấy in tròn xoe hai bên má. Phàm trần một cô gái
có nét duyên, nét đẹp đã đắm thuyền tình khối chàng trai rồi. Nhàn có gấp đôi
cái đẹp cái duyên như thế thì đến cha ông trời nhìn thấy cũng nuốt nước miếng
mà thèm nữa là những chàng trai bằng xương bằng thịt do cha mẹ đẻ ra, tạo hóa
phú cho thói đa tình.
Minh quay sang ba người bạn Tiến, Dũng, Hoài tuyên bố xanh rờn:
- Bằng mọi giá tớ phải cưa
em này!
Ba người bạn chụm đầu thì thầm với nhau rồi một người nhăn nhăn cười,
bảo Minh:
- Mày coi ba chúng tao là ba cây gỗ mục trong rừng hẳn? Em cũng lọt mắt tụi tao rồi hen (chữ hen
họ nhại tiếng các anh Nam Bộ sống và làm việc cùng).
- Thế thì lần lượt đọ găng.
- Xong béng, Chủ nhật này được nghỉ ra bãi cát ngoài suối ta đọ với
nhau xem.
Dọa nhau cho ra vẻ thôi, thực tình tất cả họ cũng chẳng iêng hùng
như những công tử thế kỷ 18, 19 bên Châu Âu gì. Chạm tự ái là đòi quyết đấu!?
Nhàn được biên chế về cùng tỏ sản xuất với Minh do Hồ Nâu làm tổ
trưởng. Hôm sau anh phân việc Minh đi làm cùng Nhàn.
Nhàn có giọng hát chèo khá hay. Tổ văn nghệ của đội diễn trong đêm
liên hoan những ngày lễ kỷ niệm. Nhàn lên sân khấu hát trích đoạn chèo Thị Mầu
lên chùa. Tay phải em cầm chiếc quạt giấy rung rung múa theo nhịp, chân nhon
nhón chạy lên, lùi xuống, tay trái mềm mại vẫy vẫy đôi quạt như làn sóng nhấp
nhô, như chim vẫy cánh cất mình bay. Vài lượt múa như thế song em mới cất tiếng
hát: "Người đâu đến ở chùa này, cổ kiêu ba ngấn"... Mọi khán
giả đều im phăng phắc, vì bị tiếng hát của Nhàn thu hết mọi lời. Là người Hà Nội
Minh từng xem nhiều loại hình sân khấu mà vẫn bị giọng hát chèo của Nhàn hút hồn.
Ngày ba lần, nghe kẻng cơm là cả hai cầm bát có ý chờ nhau để ngồi
chung mâm. Đi làm thì luôn được anh Hồ Nâu phân công làm việc cùng. Họ chỉ dừng
ở tình bạn, chưa dám vượt biên cương. Hình như tình yêu là thế, bao giờ cũng lấy
tình bạn làm bước đệm. Tình bạn giữa hai người không qua được cặp mắt trắng dã
của đội trưởng Nguyễn Em.
Nguyễn Em cũng là thành viên của cái tập đoàn sản xuất Bãi Lai. Tập
đoàn giải thể, Em được phân về một đội của nông trường. May đời Em gặp được đội
trưởng Chương một cán bộ kháng chiến tập kết là đồng hương. Chương đứng ra bảo
lãnh cho Em. Lý lịch đời Em có ngay trang đẹp mỹ mãn: Từ năm... đến năm đi tập
kết kháng chiến cài Em vô chính quyền nguỵ hoạt động nội gián... Chương tìm
hai người đồng hương nữa đồng chứng thực cho Em là người kháng chiến. Đời
Em thăng hoa từ đó. Em được đi học bổ túc văn hoá, rồi học tiếp trường sơ cấp
lâm nghiệp. Ra trường, Em về đội Hiền Lương làm cán bộ kỹ thuật trồng trọt; được
kết nạp Đảng. Đội trưởng Chương về Nam chiến đấu, đội phó Trung lên đội trưởng,
Em lên chức đội phó. Chiến trường miền Nam quân ta đánh mạnh, vùng giải phóng mở
rộng, càng cần nhiều cán bộ người quê trong đó về tăng cường lực lượng. Đội trưởng
Trung về Nam. Nguyễn Em tót lên ghế đội trưởng. Cái đầu ngu của Minh không biết
điều. Phàm cái gì cán bộ lãnh đạo đã để mắt tới thì chớ dính vào, ngoan cố sẽ
ăn đòn thù.
Lên chức đội trưởng được ít ngày. Nguyễn Em đưa ngay Nhàn lên văn
phòng đội làm kế toán phụ. Còn Minh, Em nện cho một đòn “bút”, cả dòng họ và
tên cùng thằng người bay bật vào trại chăn nuôi trong rưng sâu. "Ở đó mà
yêu lấy đàn lợn, đàn bò cho chừa bản chất tiểu tư sản lãng mạn yêu đương nhăng
nhít, thiếu lành mạnh dễ dẫn đến hủ hoá ảnh hưởng danh dự tập thể như chơi”!
Nhiều lần học chính trị, Em vừa thuyết giảng vừa răn đe để ngăn chặn từ xa mà
cái đầu đặc bí ngô của Minh không sáng mắt ra cho thế mới đáng đời...
Phần II
Cõi
thiên đường (20)
Trại chăn nuôi là tổ sản xuất độc lập, có gần năm trăm đầu lợn, mấy
chục con bò với hai mươi người “thợ” chăn nuôi. Công việc là trồng ngô, trồng sắn,
khoai lang, rau xanh, nấu cám nuôi lợn, chăn thả đàn bò, ít người nên cũng
thoáng về họp hành. Tối thứ 7 là Minh xuyên 5,6 cây số đường rừng về trung tâm
đội để thăm Nhàn. Vài tuần đầu hai người còn gặp nhau trò chuyện. Sau công việc
văn phòng nhiều, "làm ngày không đủ
em phải tranh thủ làm đêm"! Chờ đến chín rưỡi cũng chưa thấy Nhàn về
lán, kẻng gọi công nhân về ngủ đã dõng dạc keng keng chín tiếng to kèm một tiếng
nhỏ. Minh buồn bã ra về trong tiếng hoẵng oang oác ném vào đêm trăng suông nhát
một nghe chưng hửng đến buồn tái tê.
Sáng chủ nhật đến Nhàn vẫn bận công việc. Minh lên văn phòng ngó
vào cửa số, thấy Minh, Nhàn chạy ra, hai người chưa nói với nhau câu nào, đội
trưởng Em đã gọi giật giọng:
-Nhàn ơi, tổng hợp cho ảnh số liệu của tổ chăn nuôi tháng này, mai
ảnh báo cáo giám đốc.
Nhàn vội chạy đi bỏ Minh trơ lại. Đợi lâu không thấy Nhàn ra Minh
liều mình vào văn phòng mượn kẹp báo của công đoàn ngồi đọc. Báo chí, chữ nghĩa
chỉ là cái cớ để Minh ngồi lì chờ Nhàn ra. Nhàn thì chẳng thể ra. Phòng trong
thi thoảng lại thấy hai người cười đùa ré lên như chế giễu mình. Tự cảm thấy sượng
sùng, Minh lặng lẽ rút lui đến rủ ba thằng bạn tìm anh Nâu bắt hộ ba ba về nấu
nướng để bù khú cho qua ngày chủ nhật.
Về bình tĩnh suy nghĩ lại, Minh thấy mình hơi vô duyên. Đã tỏ tình
với người ta đâu, mà tỏ tình chắc gì người ta đã yêu mình. Yêu đơn phương cũng
tương tư sầu muộn, vô lý đùng đùng. máu sĩ diện con trai nổi lên, Minh dẹp luôn
sự thổn thức của con tim.
Được cái Minh cũng thuộc típ ruột để ngoài da, vài ba ngày sau
quên khuấy mọi chuyện. Có bao nhiêu tiền Minh mua sách báo về đọc để quên.
Thời gian bẵng đi vài tháng. Một tối tập trung về đội họp tổng kết
sáu tháng đầu năm. Họp xong ra về, chị Bắc người cùng tổ sản xuất cũ, kéo Minh
lại nói nhỏ:
- Minh này, hình như con Nhàn có chửa? Tao thấy bụng nó căng căng,
lưng ngay ngay, eo iếc không còn thắt đáy lưng ong, mạch cổ dật dật, lông mày dựng
ngược, người gầy và xanh xao lắm. Chị bảo thực, chúng mày chót ăn cơm trước kẻng
thì báo cáo công đoàn rồi cưới nhau đi, không thì mày chết!
Minh ớ người đứng đực ra, hoang mang nhộn
nhạo cả người. Mãi mới lấy lại được bình tĩnh, Minh trả lời:
- Chị thấy đấy, hồi ở
cùng tổ với chị chúng em có thân nhau, nhưng từ ngày em chuyển sang tổ chăn
nuôi còn thân nữa đâu. Nhàn có chửa là với người khác chứ không phải em.
- Đừng chối! Người ta bảo con Nhàn khai chửa với cậu!
Minh
chết điếng, không kìm nổi mình:
- Để em cho ả “Thị Màu” vài cái tát,
dám vu oan giá hoạ!
Nhàn bỗng hiện ra trước mặt Minh khác luôn: đỏng đảnh, trơ trẽn đĩ
thoã như Thị Mầu mà Nhàn từng đóng vai mỗi khi biểu diễn văn nghệ.
Chị Bắc kéo Minh lại :
-Vớ vẩn! Nghe thấy chị bảo cho mà lo trước
đi còn lắm chuyện.
Minh vùng người khỏi tay chị Bắc, quên cả
chào, chạy một mạch lên khu tập thể tìm Nhàn. Khi thấy mọi người đang mắc màn
đi ngủ Minh vội quay ra, vì không thể vào lán phụ nữ khi họ sắp đi ngủ.
Bẵng đi vài ngày do bận công việc Minh chưa kịp tìm Nhàn để cho
"vài cái tát" thì ông Chính thư ký công đoàn cho người đên báo Minh về
văn phòng đội họp!
Mặc
nguyên quần áo bảo hộ lao động còn ám mùi cám, mùi phân lợn, nửa đi nửa chạy
cho nhanh tới. Trong văn phòng ngồi đó đủ bộ tam đoàn thể: Thư ký công đoàn, bí
thư chi đoàn thanh niên, trưởng ban nữ công và Nhàn. Vừa thấy Minh vào hai bàn
tay Nhàn vội ôm mặt gục xuống bàn. Thấy Nhàn gầy và xanh xao quá. Minh đứng đầu
bàn hỏi ông Chính công đoàn với giọng khiêu khích:
- Ông cho đòi tôi có việc gì sai bảo ạ?
Bà trưởng ban nữ công giọng thân mật:
- Đồng chí Minh à, mọi sự Nhàn đã nhận
cả rồi, giờ lãnh đạo cần tinh thần tự giác của đồng chí. Giấy bút đây đồng chí
làm bản kiểm điểm rồi lãnh đạo sẽ lo tổ chức đám cưới cho hai đồng chí...
Phần II
Cõi
thiên đường (21)
Minh cố gìm xúc cảm tiêu cực cho lời nói nhẹ nhàng hơn, bởi trông
Nhàn tàn tạ suy sụp quá, nặng lời với Nhàn lúc này liệu có nên không? Định đổ tội
cho Minh thì thái độ Nhàn phải khác. Chắc có sự sặp đặt gì chăng? Bỗng Nhàn ngẩng
lên nói:
-Xin các người hãy để anh ấy yên. Đứa con trong bụng là của tôi,
anh Minh không liên can. Tôi đã trinh bày với tất cả mọi người nhiều lần rồi,
sao các người cứ áp đặt mãi?
Rồi Nhàn gục xuống bàn thổn thức.
Cái thai trong bụng Nhàn chưa ai nhận là tác giả, tác giả ấy chỉ
mình Nhàn biết, Nhàn giữ bí mât thì trời cũng chịu.
Các anh các chị hồi ở cùng tổ sản xuất cũ, hễ gặp MInh là trêu:
“Người ta đúc cốt hộ rồi, mình cứ việc tráng men, nhàn nhã quá còn gì. Nhận đi,
cá vào ao ta, ta được, tội gì”. Biết đùa không đúng với ý nghĩa sự việc nhưng mọi
người vẫn đùa để trêu Minh.
Không thể quàng vào cổ Minh tội hủ hoá, để giải quyết hậu quả. Họ
quay sang khắc phục kiểu khác.
Anh Hồ Nâu bỗng dưng đứng ra nhận. Anh nói anh dùng bùa ngải mê hoặc
để hủ hoá với Nhàn, anh chịu trách nhiệm nuôi đứa bé cho đến khi nó trưởng
thành. Anh tự làm kiểm điểm và xin nhận kỷ luất về đảng. Để giữ danh dự nội bộ,
họ đạo diễn vụ này thật khéo. Nhàn tìm gặp anh Hồ Nâu phản đối. Anh bảo:
- Eng chấp nhận phương án
ni đi, ai trói eng vô tau đâu mà sợ. Tau làm cha đỡ đầu cho con eng. Tau sắp về Nam chiến đấu, mà chiến đấu thì
biết sống chết khi mô. Sau này con eng hỏi ba đâu thì eng bảo cho nó hay là “Thống nhất đất nước
ba sẽ về, chúng ta phải có niềm hy vọng dành cho con trẻ
chớ, em!
Không ngờ vai diễn Thị Màu vận vào đời Nhàn ác
vậy! Vài tháng sau
Nhàn sinh con trai, đứa bé còi cọc nhăn nhúm "Bé bằng cái tẹo, chưa đầy
hai cân" (chị y tá đỡ đẻ sau khi cân đứa bé nói vui thế). Cũng do
người mẹ khi mang thai kém bồi dưỡng, lại thêm những dằn vặt về tinh thần, hậu
quả đứa trẻ phải gánh chụi. Thôi thì có đầu có đuôi nuôi lâu cũng lớn. Nhờ những
quả trưng gà anh Hồ Nâu tăng gia được, những con chim rẽ đồng anh bẫy ngoài
ruộng lúa và một tập thể bạn bè người cân đường, người hộp sữa dành cho mẹ con
Nhàn.
Anh Nâu vào rừng tước
mây, chặt song đem về hì hục vót vót, chẻ chẻ phơi sấy cặm cụi đan cái nôi hình
bầu dục treo lắc lư trên những vòng song uốn lượn hoa văn
cầu kì, có cả
bốn bánh gỗ đẩy đi kéo lại
kêu cút kít mừng khi thằng cu đầy tháng.
Tính tò mò làm mấy trăm con người, họ hồi hộp mong thằng cu lớn nhanh để xem nó giống
ai. Giống Minh hay Nguyễn Em. Minh có thời thân với Nhàn. “Đưa nhau vào bản
này bản nọ mua mít, mua mận,
đi chơi thị xã, đèo nhau qua bao quãng đường vắng, mỡ để trước miệng mèo. Mèo Xiêm Hà Nội chúa lãng mạn, si tình. Con
gái hơ hớ ra thế, có mà nó chê! Bố nó cũng khó mà chê nữa là nó!" Họ dị nghị đàm tiếu về Minh
thế. Nguyễn Em thì từ khi đưa Nhàn lên văn phòng đội làm kế toán "luôn đi sâu đi
sát vào “tận... quần chúng” để tìm... cái mênh mông"! Vì Nhàn đang là đối tượng cảm tình Đảng loại một,
Nguyễn Em đang bồi dưỡng để kết nạp. Ở trong Nam Em đang có vợ con. Vả lại
luật hôn nhân quy định một vợ một chồng, chuyện hủ hoá thời
ấy là tội nặng, rất nặng. Nhưng trong nội bộ người ta bưng bít cho nhau
thì hòa cả làng.
Hết chế độ nghỉ đẻ, Nhàn
gửi con nhà trẻ để đi làm. Lúc đó tính tò mò của mọi người tha hồ thả phanh săm
soi. Người thuận đường đi qua nhà trẻ rẽ vào xem thằng cu lớn cần nào đã đành. Có
người phải đi vòng lội qua suối, leo qua dốc bở hơi tai để xem bằng mặt, sờ tận tay thằng cu. Một điều làm mọi người còn bán tín bán nghi
về cái tên Hồ Minh Anh,
Nhàn đặt cho thằng bé. Họ Hồ
- anh Hồ
Nâu tự nguyện tặng
cho
bé; về chữ đệm – Minh, thì Minh có cho mượn đâu? Cái tên Anh chả ai suy
ra ngụ ý. Người nọ hỏi người kia thành tính tò mò lây sang Minh. Sau vài lần vắt
tay lên trán suy đông, nghĩ đoài Minh mới tìm ra: “chữ anh đi liền chữ em: “anh em như thể tay chân”. Khi tìm ra cái ngụ ý tên
Anh, Nhàn đặt cho con
mình, Minh sang tai cho mấy bà chuyên buôn dưa lê để thoát lỗi bực mình.
-“Thằng con là... ANH thằng bố hi hi... Cái Nhàn thế mà ghê, khớ khớ... hì hì...!".
Vài người có tính hài hước gặp Minh vẫn đùa dai:
- Cậu em chết chửa? “Ấy”
con ngưòi ta chửa rồi chạy làng, bị nó lấy tên đặt cho con nó, khi nào tức nó cứ
réo: "Tiên sư bố thằng Minh... Anh" nó chửi cho... ha ha... hà hà...hớ
hớ...
Rồi ôm nhau cười rũ rượi tại nơi làm việc.
Họ đùa “văn nghệ” với nhau cho quên mệt nhọc lúc lao động vất vả. Còn Minh chỉ biết
gượng ngùng cười theo. Nhưng trong lòng rất bực!
Phần II
Cõi
thiên đường (22)
Cu Minh Anh càng lớn càng hiện rõ đường nét, khuôn mặt đội trưởng Nguyễn
Em. Tóc cứng rễ tre, mắt trắng giã, lông mày sâu róm xếch ngược lưỡi mác, mũi
khoằm khoằm mỏ diều hâu chõ xuống nhòm đôi môi dầy làm cho lỗ miệng rộng vếch
ra hai khoé mép đè bẹp cái cằm lẹm.
Một ngày vào đầu tháng tư năm 1966 anh Nâu gánh trên vai hai túm
ba ba hơn chục con. Loại to có thể ăn ngay, loại giâu giẫu phải nuôi thêm mới
ăn được. Chân con nọ trói với chân con kia xâu vào hai đầu đoạn tre tươi tong
tong đến tìm Minh, nói:
- Dưới nớ con mô bọn bay nấu được tau bắt cả về đây rồi, đào hố thả
nuôi lớn mà nấu dần. Tuần sau tau về Nam đánh Mỹ, bọn bay muốn ăn cũng không bắt
nổi mô!
Minh đem thả đám ba ba vào bể chứa nước phòng hoả rồi lấy xe đạp
cùng anh đi chơi. Hai người cưỡi xe đạp leo ba bốn cái dốc gần một giờ mới tới
thị xã. Minh tìm đến một quán ăn. Anh Nâu bảo:
- Đưa tao đến quỹ tiết kiệm.
Minh bảo:
- Đánh chén cái đã anh.
Anh
Nâu bảo:
-
Để tau khao, cuộc chia tay ni của tau, tau được quyền khao.
Minh
gạt đi:
- Ai khao mà chắng thế. Tiền đối với anh em mình là cái quái gì
lúc sắp chia li này, anh!
Hai
người nhậu lai rai đến giờ làm việc chiều, Minh mới hỏi:
- Anh rút tiền tiết kiệm à?
-
Mô, tau gửi!
-
Anh gửi? Về Nam chiến đấu anh còn gửi tiết kiệm ngoài này làm chi? Có bao nhiêu
tiền để em mua vàng anh đem cho gọn.
- Tau gửi cho cu Hồ Minh Anh!
Chuyến
về Nam đó có cả đội trưởng Nguyễn Em. Tháng 8 năm đó Minh cũng nhập ngũ.
Phần II
Cõi
thiên đường (23)
Hơn hai năm sau, giữa một cánh rừng Trường Sơn. Loa tâm lý chiến của
của VNCH từ máy bay vọng xuống tiếng một kẻ chiêu hồi: “Hỡi anh em binh sĩ Bắc
Việt. Tôi là Nguyễn Em, cán bộ từ thời kháng chiến đánh Pháp đi tập kết. Khi ở
miền Bắc tôi từng làm “giám đốc” (bốc phét) nông trường sông Thu nhiều
năm. Tôi trở về xâm lược Nam năm 1966... Về trong mô tôi mới nhận ra chính
nghĩa quốc gia...”.
- Chính hắn!
Người Minh nóng ran, không kìm nổi, Minh cầm lấy khẩu Ak, leo lên
đỉnh núi giương súng chờ, khi cái máy bay gắn loa tâm lý chiến vòng lại, Minh
nhằm nó xiết cò. Trong tưởng tượng, Minh thấy rõ cả băng đạn găm đầy cái mồm rộng
vếch ra hai khoé mép kẻ cơ hội mạt hạng.
***
Đất
nước thống nhất, Nam Bắc thông thương. Mười năm sau, một lần Minh vào đồng bằng
Nam Bộ công tác. Đang chờ qua phà Hậu Giang, Minh thấy một người mặc bộ quần áo
bộ đội trông quen quen, một tay người đó chống nạng, một tay chìa lắp cặp lồng nhôm
lên cửa sổ các ôtô khách đang chờ phà xin tiền. Minh lại gần, nhận ra đó chính
là Nguyễn Em. Minh mở ví lấy một tờ tiền lẻ bỏ vào lắp cặp lồng cho hắn ta. Em
ngước mắt lên nhìn Minh, và:
-Cảm ơn!
Khi nhận ra Minh, mặt Em tái ngắt, ngoắt người bỏ đi. Minh nắm cái
nạng giữ hắn lại nói nhỏ:
- Ông mặc bộ đồ quân nhân này đi làm nghề
gì cũng được. Nếu cuộc sống bức bách quá, phải làm nghề này thì yêu cầu ông mặc
bộ đồ khác cho.
Em dạ dài một tiếng, đồng thời bỏ cái lắp
cặp lồng vào chiếc túi mìn Claymo khoác trên vai rồi loách choách chống nạng đi
ngược về cuối bến phà.
Huệ tắt Gương Quá Khứ Hiện Về, quay sang
tôi, nói:
- Sau khi em xuống trần
gian một ít ngày, thì Nhàn, em gái em cũng xuống một gia đình ở tỉnh TB.
Phần II
Cõi
thiên đường (24)
Khách
khứa lục tục kéo đến dự tiệc toàn các quan mũ cao áo dài, những thiên binh,
thiên tướng, 11 vị Tào Phán quan, 12 vị Hành Khiển, các Thiên Lôi, chư vị thánh
thần, Nam tào, Bắc đẩu, tiên bà, tiên cô... Ông, bà nào cũng đem theo gói hay
hộp tặng phẩm. Người không đem hiện vật thì thủ trong túi chiếc phong bì làm
quà tặng. Nghĩ ra tôi, Huệ, Nhàn và Minh đi mồm không. Ði ăn tiệc mà đi mồm
không cứ áy náy, vô duyên thế nào ấy, không đúng “mốt” lệ làng thời hiện đại
rất chi là ngại. Tôi quay sang hỏi Huệ:
-
Em có tiền không?
Huệ
hỏi lại tôi:
-
Anh cần tiền làm gì?
-
Bỏ phong bì làm quà tặng.
-
Vẽ chuyện, việc gì phải sĩ diện với đám quan giời ơi đất hỡi, hợm của hợm tiền,
hợm chức hợm quyền này chứ!
Là tiên nữ trên trời, nhưng Huệ từng là con nhà lính nơi trần gian
nên tính Huệ thẳng băng như sợi dây bật mực tàu lên khúc gỗ để xẻ cho thẳng ván
quan tài. Hễ thấy điều trái tai gai mắt Huệ đả cho tới kịch số cùng. Những vị
quan trời thanh liêm thì quý, nể phục tính cách ấy của Huệ, còn kẻ gian manh
thì e dè khi giáp mặt Huệ.
Huệ nắm tay tôi, Nhàn
cầm tay Minh bước vào hội trường giữa những ánh mắt, nụ cười đầy thiện cảm, rồi
những cánh tay ở các bàn xa giơ cao vẫy chào Huệ. Huệ, Nhàn liên tục chắp hai
tay đáp lễ người đằng trước, người phía sau. Cũng cả những anh mắt soi mói tôi
và Minh. Minh và tôi đều nhận thấy nên chúng tôi vô cảm, lạnh lùng với tất cả.
Bữa tiệc hôm ấy Huệ là người nổi đình đám, được chú ý nhất, do bộ đồ quân nhân
Huệ mặc trông rất khỏe khoắn, thon gọn, tươi tắn đẹp như lính văn công nơi trần
gian.
Huệ
hào hứng giới thiệu tôi và Minh với nhiều người quen của mình. Có điều lạ mỗi
người Huệ giới thiệu tôi ở một vị trí: Lúc là bạn chiến đấu hồi Huệ bị đày
xuống trần gian, lúc là anh trai, lúc là bạn học, lúc là người yêu sắp cưới
ngày xưa… Sự cảm tình của Huệ với người đó đến đâu Huệ đặt tôi “ngồi” vào vị
trí đó. Với vị này thì chân tình, sang người khác là bỡn cợt như chế giễu họ,
biến tôi thành trò hề lúc sắm vai nọ, khi đóng vai kia chóng quay mày mặt.
Hình
như đến dự tiệc hôm đó nhiều người tò mò mà đến. Đến để xem anh trọc phú khoe
khoang sự giầu có, chẳng ai ăn uống gì mấy, cỗ bàn bia rượu thừa mứa bỏ lại đầy
bàn sau đó. Một lão Tào thần tép riu theo hầu quan Hành khiển lợi
dụng quyền thế mua rẻ bán đắt đất đai nơi trần gian giàu lên một chút đã vênh
vang hợm của, khoe nọ khoe kia ầm trời.
Huệ
giới thiệu tôi với Thánh Mẫu, Nhàn giới thiệu Minh. Thánh Mẫu là người đàn bà
đẹp, rất đẹp. Nói cho đúng bà rất đẹp lão; trông đoan trang phúc hậu. Tôi đoán
bà chỉ khoảng trên dưới 50 tuổi, Huệ bảo bà không có tuổi, bà sinh cùng trời
đất, thọ cùng trời đất. Với Việt Nam bà là mẹ Âu Cơ sinh ra trăm trứng, nở ra
những trai tài gái giỏi biết gìn giữ non sông gấm vóc của tổ tiên vĩnh hằng. Bà
giống Nữ Oa đội đá vá giời của người Trung Quốc đẻ ra lũ độc tài chuyên cướp
đất đai hàng xóm về làm của mình, đầy ải con dân ra chiến địa máu chảy đầu rơi.
Giống như Châu Âu, Ả Rập, Do Thái, bà là Eva cùng Ađam rủ nhau ăn trái cấm để phải chịu trách nhiệm như nhau về tội lỗi cấm kị của cha trời.
Bà nghiêm nghị dến khó tính. Nhưng ở bà luôn
có tình thương bao la với mọi sinh linh của cả ba cõi: Âm, Trần và cõi Tiên. Bà
chẳng bao giờ ghét bỏ ai. Ai làm điều tốt bà động viên kích lệ, ai cố tình làm
điều xấu xa bà mắng mỏ, đầy ải, biết hối cải thì bà lại thương yêu rất công
bằng. Ðó là bản chất vốn có của những người mẹ Việt Nam anh hùng. Tuy bà nghiêm nghị là thế, nhưng vẫn có
những đứa con lạc loài, đứa con bạc ác đươc sinh ra. Đó là sự sinh ngoài ý muốn
tốt đẹp vốn có của Thánh Mẫu.
Lúc đầu, thái độ Thánh
Mẫu lạnh lùng không mấy quan tâm đến tôi và Minh. Bà cho Huệ ngồi cạnh bên
phải, Nhàn bên trái, còn tôi và Minh bà khinh khỉnh để đứng trơ thổ địa ra làm
tôi và Minh rất bực mình. Thấy Minh ngoắt người định bỏ đi, tôi vội giữ Minh
lại. Lúc ấy tôi cũng bực lắm, nhưng vì tính tò mò muốn xem sự thể đầu cua tai
nheo bữa tiệc nhà trời ra sao nên tôi cố chịu đựng, đứng đực ra như thừa giữa
đám quan trời rỗi việc, rách việc bầy đặt tiệc tùng ăn nhậu cho sướng miệng!
Nếu không phải bà là Thánh Mẫu như Huệ giới thiệu thì tôi đã cùng Minh bỏ đi
tức thì. Lúc sau Thánh Mẫu quay sang nói với chúng tôi giọng đầy phẫn khích:
-
Các ngươi là quân người trần mắt thịt tham lam dơ dáy, thấy gái như mèo thấy
mỡ. Con gái ta ở dưới đó hai mươi năm các ngươi đầy ải chúng nó xuýt nữa thân
tàn ma dại. May các con ta không sao chứ nó mà làm sao ta sẽ làm mưa gió, bão
giông tiêu diệt hết cái giống người tham lam ích kỷ, lúc nào cũng chỉ thích gây
binh đao khói lửa giết chóc nhau như giết cóc giết nhái. Ta không hiểu nổi đầu
óc giống người trần mắt thịt ra sao nữa? Hơi tý là đánh nhau. Tranh nhau thẻo
bờ ruộng là kéo cả ổ, cả nhà, cả họ cả hàng ra giữa cánh đồng đánh chửi nhau
lộn tùng phèo. Ta ghét các ngươi; ta ghét
lòng dạ hẹp hòi, đố kị, hay ghen ăn tức ở của các người!
Phần II
Cõi
thiên đường (25)
Vô cớ, bị Thánh Mẫu
trút giận vào tôi, tôi bực lắm, định “đấu” lại bà một trận. Còn đang suy nghĩ
tìm từ thích hợp để nói, thì may sao một vị Biểu tào vận bộ đồng phục gấm màu vàng
tơ, hoa văn dệt nổi hai chữ phúc chữ lộc ngoặc lấy nhau trên nền vải áo, tay cầm
chai rượu Tây đến trước Thánh Mẫu, bật nút rót ra chén mời Thánh Mẫu chén đầu
tiên để bà khai tiệc, chén thứ hai là Huệ, chén thứ ba cho Nhàn, rồi bà cầm
chén rượu giơ cao chúc tụng mọi người, mọi người cũng giơ cao chén rượu chúc lại.
Bà nhấp một hụm rồi lạnh lùng đưa chén rượu cho tôi. Vì không hiểu tập tục nhà
trời, tôi cứ cầm chén rượu đứng như trời trồng giữa hội trường đông đủ quan lớn
quan nhỏ ăn mặc loè loẹt như đám hề tuồng nhí nhố khoe những bộ xiêm y đủ sắc
màu.
Bấm
nhẹ vào người tôi, Huệ bảo:
- Mẹ
cho, sao anh không tạ ơn mẹ rồi uống đi.
Chúng
tôi nghèo thì nghèo thật, phó thường dân thì phó thường dân thật nhưng chén rượu
thừa, miếng cơm thừa dù của trời chăng nữa, chết đói cũng không thèm. Đặt trả
ly rượu xuống bàn ngay trước mặt Thánh Mẫu, tôi hung hăng kéo áo Minh định rời
khỏi bàn tiệc. Thánh Mẫu nắm tay tôi, níu tay Minh bảo tôi ngồi xuống cạnh Huệ,
Minh ngồi cạnh Nhàn.
Rồi bà nói
với Huệ:
- Hai
thằng này làm mẹ thích! Bảo Phán quan Biểu tào đưa chai rượu mới ra đây để mẹ
tiếp hai đữa - mau! Rồi bà quay sang bảo tôi:
- Làm người
phải biết kiêu hãnh mới đáng làm người. Làm người mà nhỏ nhen tư túi, tham ăn tục
uống, ăn của thừa, của đút lót thì làm chó mèo cho đúng bản chất.
Sau
đó mọi của ngon vật lạ trên mâm tiệc Thánh Mẫu tiếp đầy bát cho tôi và MInh.
Thánh Mẫu có tài mẫn tiệp, nói năng nhỏ nhẹ và có
sức thuyết phục, đoán trước được ý tôi định nói gì để đưa ra câu cần thiết chế
ngự bớt tính thẳng ruột ngựa của tôi trước đám đông.
Bà bảo:
- Cõi Trời, cõi Trần, cõi Âm đâu đâu phàm là giống
có mắt, có mũi, có mồm, có tay đều tham lam như chó cả. Mắt nhìn thấy của là muốn
lấy, tay sờ thấy của là muốn vơ, mũi ngửi thấy mùi thịt, mùi cá là xui thằng mồm
ăn lấy ăn để. Những kẻ làm quan càng to càng tham lam, có mắng mỏ, chửi rủa những
đồ mặt dày ấy cũng chẳng coi vào đâu. Mắng chỉ phí lời. Quân tham lam đó, chúng
coi “tiền là tiên là Phật”, mọi nhân nghĩa ở đời với chúng đều xem như chuyện
nhỏ trôn kim, không thèm quan tâm.
Phần II
Cõi
thiên đường (26)
Thấy tôi và Minh được Thánh Mẫu tiếp chuyện ân cần thân mật, các thiên binh thiên tướng, các Biểu Tào cầm ly rượu đến chạm cốc với hai chúng tôi. Hình như họ làm thế để lấy lòng Thánh Mẫu, Huệ và Nhàn. Bởi vị thế của tôi, của Minh đâu đáng được họ xã giao thân tình đến vậy. Gần người sang bỗng nhiên mình được sang lây, cái sang nhờ danh người khác làm tôi đâm hoắng, quên béng thân phận mình là người trần mắt thịt. Gía lúc ấy, Phong tôi được vị quan trời nào đó gắn cho cái mề đay do công lao lên trời du lịch có phải “Thanks, Thanks” họ cho đến khi hạ huyệt xuống Âm phủ vẫn sướng âm ỉ không!
Giống người kể cũng lạ, khổ mãi không sao, may mắn được người ta
cho nếm tí sướng đã như mình bỗng chốc cao sang, vênh vang ra mặt, hớn hở ra
trò; ra cái đều: Ông được lên tiên đây, ông cũng là tiên đây...! Sau về nằm gác
tay lên trán nghĩ lại chuyện giấc mơ ấy mà ngượng mãi, xấu hổ mãi tận giờ.
Tiệc đang bốc tới độ cao trào cuộc vui,
cốc chạm cốc canh cách, ồn ào hưng phấn những tiếng “dzô nào, dzô đi, chúc mừng,
chúc mừng”, bỗng một vị quan trời râu tóc bạc phơ, diện bộ quan phục đồng màu gấm
trắng cùng hai tiểu đồng, cũng y phục trắng phau, trắng bốp bước đi khoan thai
nhàn nhã như dạo chơi, gặp đám vui thì rẽ vào. Vị này là Kim Tiên Bạch. Chủ tiệc
nhanh chóng bày bàn tiệc mới rất thịnh soạn, trịnh trọng mời Kim Tiên Bạch.
Nhìn thấy chai rượu quý, chai rượu đó dưới trần gian mua nó phải hàng vài nghìn
Ðô la. Sợ chủ tiệc mời mình rượu quý hiếm, đắt tiền. Dân nghèo trần gian còn
chưa đủ cơm ăn áo mặc, mà trên trời cứ rượu chè bết xi lết, lãng phí, trần gian
họ biết, họ oán cho, họ sẽ không sùng bái nữa thì lấy của ngon vật lạ đâu mà ăn,
thế thì hết hộc! Trước khi uống, Kim
Tiên Bạch hỏi chai rượu thết ông giá tiền bao nhiêu tiền. Một vị quan trời đứng
gần, biết tính Kim Tiên Bạch bèn tâu một câu lấp lửng:
- Thưa, chai rượu này chẳng đáng là bao
đâu, ba bốn chục nghìn đồng là kịch giá...
Kim Tiên Bạch cầm chai rượu xem cái cổ rụt,
ngắm cái đít lồi, nhìn mác trước, ngó nhãn sau thấy toàn tiếng Tây, ông không
tin chai rượu ấy giá mấy chục nghìn đồng. Nghi bọn họ nói dối, mua nhiều bảo
ít. Ông nói:
- Các vị nói thế nào chứ, chai rượu Tây
sịn thế này mà có ba bốn chục nghìn thì lão không tin… lão không tin!
Một vị quan trời khác đứng cạnh đón chai
rượu từ tay Kim Tiên Bạch, xoay xoay mấy vòng chai rượu, vờ xem cái nhãn, giả
nhìn đít chai, rồi nói:
- Chai rượu này chưa đến bốn mươi nghìn
đâu cụ ơi! Nhãn mác Tây nhưng nó được “sản xuất” tại Việt Nam, dân công rẻ nên
giá thành chỉ thế thôi. Rượu ngoại nhập khẩu cơ, thuế nọ thuế kia cộng vào mới
thành vài chục triệu đồng một chai chớ!
Phần II
Cõi
thiên đường (27)
Kim
Tiên Bạch tưởng thật, tưởng được uống rượu “ngoại” sản xuất tại Việt Nam nên
ông vui vẻ cụng ly, vui vẻ nhấp môi thưởng thức. Tợp xong hụm rượu ông bảo:
- Chà
chà, công nghệ Tây, người Nam nấu ngon tuyệt, hề hề! Giá rẻ hề! Ba bốn mươi
nghìn thì uống cho vui, chứ rượu mua bằng Ðô, bằng Ơ, bằng Tệ lãng phí lão
không uống. Uống vậy, ăn vậy khác nào ăn xương uống đồng bào!
Nói
thế chứ, ngay bộ quần áo Kim Tiên Bách đang mặc, khi biếu ông người biếu cũng:
- Vải nội địa ấy mà, chẳng đáng là bao, chưa đến
năm trăm nghìn đồng đâu thưa đại lão Kim!
Thử hỏi, bộ quấn áo gấm, dệt
bằng sợi tơ tằm nguyên chất trắng tinh, hoa văn nổi hoa văn chìm trông như hoa thật
đính lên mặt vải. Để có bộ áo quần ấy phải mất bao nhiêu công đoạn: Từ bà nông
dân trồng dâu nuôi tằm, chị thợ thủ công ươm tơ kéo kén, xe sợi; thợ canh cửi,
đến anh thợ may đo khéo léo đường kim mũi chỉ mới làm ra được bộ quan phục quý
hiếm ấy. Lụa tơ tằm quý ở chỗ là vải, nhưng từ sự tinh túy của “thịt” mà con tằm
rút ruột ra. Thịt cọ vào thịt vừa mịn mềm vừa mát, thoát khí nhanh. Không như vải
pha nylon, hễ ra mồ hôi là vải dính vào da gây ram ráp, ngứa ngáy khó chịu. Các
nhà tỷ phú, nguyên thủ những nước giàu có họ thửa bộ quần áo tơ tằm 100% phải vài
nghìn Đô la. Vậy mà lúc nhận quà, Kim Tiên Bạch hỏi bộ áo quần biếu ông trị giá
bao nhiêu tiền? Họ bảo chỉ trên dưới năm trăm nghìn Việt Nam đồng, ông cũng tin
sái cổ! Trách gì bao điều họ báo cáo về trời đều không trung thực cả. Người dân
nơi trần gian đang vất vả khổ sở, theo báo cáo của thần linh, thổ địa, ba vợ chồng
nhà Táo Quân thì họ đang sung sướng lắm lắm. Ơn trời, nhờ cụ, họ béo tốt khoẻ mạnh
lắm! Trong lúc họ đang lần ăn từng bữa, hết độn khoai, độn sắn, độn ngô mảnh, đến
bo bo tống cho đầy dạ dày để ngày đêm mơ về cõi thiên đường trong mơ ngủ!...
Chủ
tiệc rót rượu mời Kim Tiên Bạch, họ rót mời luôn cả hai tiểu đồng. Thấy thế ông
ca cẩm:
-
Thôi chết! Tiểu đồng của ta mới nứt mắt ra đã mời chúng sử dụng “em thằng ma
tuý” thế này, quen mồm đi, lớn lên nghiện ngập thì khổ vợ khổ con, tan cửa nát
nhà nó ra mất thôi. Chung quy lại, trẻ hư đều do người lớn làm hư chúng cả.
Một vị
Tào phán quan đứng cạnh, rượu vào đã đủ độ lơ mơ, chạm cạch ly rượu cầm tay vào
ly rượu Kim Tiên Bạch:
- Vô
tư đi cụ ơi! Dzô nào, dzô nào! Uống rượu thì việc gì phải nghĩ ngợi xa xôi nhiều
vậy? Trần gian bây giờ tỉnh nào chẳng có vài nhà máy bia, nhà máy rượu; một nhà
máy mỗi năm sản xuất ra hàng vài triệu lít rượu. Tuần rằm, mùng một, hội hè, giỗ
chạp, lễ tết các kiểu; nhà tư, nhà thờ họ, đình, chùa, đền, miếu, hội hè đâu
đâu người ta chẳng cúng trời, cúng thần thánh bọn ta bằng rượu, bằng bia. Chúng
ta không uống, con cháu chúng ta không uống, kẻ hầu người hạ nhà trời không uống?
Trần gian họ cúng thế phí rượu à? Ðêm giao thừa năm nào các Tào phán quan chúng
tôi đi tuần du hạ giới chẳng đem về cả hàng triệu chai rượu, két bia. Uống đi,
cho chúng nó uống thoải mái đi, mất gì của trời mà sợ! Hết rượu ta lại xuống hạ
giới khuâng về, dưới đó vô thiên lủng là rượu, là bia. Các loại rượu quý khắp
thế giới có mặt tại Việt Nam, Trung Quốc; gần một tỷ rưỡi người hai nước này thết
rượu chúng ta dài dài kia mà, tội gì phải nhịn miệng! Rượu Tây, rượu Ta chai to
chai nhỏ nhiều như thác đổ về trời những ngày lễ, tết. Trông thấy rượu mà không
uống bố ai chịu được! Dzô đi, dzô đi cụ ơi!
- Ai
thích, ai nghiện thì cứ việc uống, đừng làm hư lũ trẻ!
Vị
Phán quan đó ngửa cổ rốc cả ly rượu vào mồm, khà một tiếng rõ to, quay người một
vòng, chân nọ đá chân kia, ngật ngưỡng chìa ly cho người tiếp rượu rót tiếp, rồi
quay lại phía Kim Tiên Bạch. Nói tiếp:
-
Chuyện ngài chẳng hạn! Dưới trần người nào bị sao “quả tạ” (Thái Bạch) của ngài
chiếu phải là năm đó gặp hạn to, không chết người thì cũng ốm đau, mất của. Họ
sợ ngài gieo tai ách, gieo hạn “Thái Bạch” cho họ nên Rằm tháng Giêng nào họ
cũng phải cúng sao giải hạn cho ngài, nào hình nhân thế mạng, tiền, vàng, phẩm
vật, rượu thịt dâng lễ ngài cả núi cao ngất, ngài đã bớt ra khao ai bữa nào
chưa?
Kim
Tiên Bạch ngạc nhiên, hỏi:
- Có
cả chuyện ấy nữa à? Sao lão không biết?
-
Ngài không biết thật ư? Quân hầu kẻ hạ của ngài chúng không báo cáo ngài sao? Vậy
lầu son gác tía từ đâu ra cho ngài ở, xe loan xe phượng từ đâu ra cho ngài đi
mây về gió?
Phần
II
Cõi
thiên đường (28)
Nghe thế, Kim Tiên Bạch
chỉ biết vái giời, xin thua không biết tranh cãi sao với các vị quan trời to,
nhỏ đang bốc đồng vì rượu, đang mặt đỏ phừng phừng, tay cầm chai rót, tay cầm cốc
rốc vào miệng tì tì để sướng.
Tiệc
tan, khi đứng lên ra về Thánh Mẫu quay sang bảo tôi và Minh:
- Hai
anh nên về trần gian nhà các anh đi, đừng theo quấy rầy hai con gái ta mãi. Ta
đang cần hai đứa thay ta trông coi việc
tiên giới một thời gian dài đây, trên này không nhiều thời giờ để lươn khươn
như trần gian các người đâu. Đừng lẽo đẽo bám theo con gái ta dai như đỉa đói
làm chúng nó bỏ bễ bao nhiêu công việc của ta. Cái giống đàn ông háu gái các
ngươi thời buổi nào cũng sẵn như rác đô thị, dọn mãi không hết. Về mà quây quần
bên vợ con hai ngươi thì hơn. Đừng làm ta nổi giận, ta mà nổi giận thì không phải
chuyện thường đâu.
Nghe
Thánh Mẫu mắng tôi và Minh, Huệ níu lấy cánh tay bà, miệng liên tục:
- Kìa
mẹ, kìa mẹ… ứ ừ me...
Huệ
nũng nịu nói thêm:
- Mẹ
ơi, tuy cuộc sống nơi trần gian có sông thương biển khổ thật đấy nhưng con vẫn
muốn sống dưới đó. Con xin nói trước, khi nào có điều kiện con lại đầu thai xuống
trần gian. Loài người dưới đó tuy đói nghèo, khổ ải nhưng đại bộ phận họ biết
yêu thương nhau, họ sống với nhau đầy lòng nhân ái, vị tha. Hạnh phúc mà họ có
được là lòng can đảm, đức hy sinh. Ngay trong nghèo túng họ vẫn sinh ra những
thiên thần bé nhỏ của họ mà cõi tiên chúng ta không bao giờ có được.
Thánh
Mẫu chừng mắt:
- Chị giỏi thật! Vâââ… âââng, mai chị xuống
ngay đi… cho tôi nhờ!
Cũng
lúc ấy Duy đi tắm về mở cửa đánh rầm, sau đó là một bài ca không tên giong đầy
riết róng:
-
Này! Không phải ra biển để vùi đầu nằm ngủ như chết thế đâu nhé, phí tiền thuê
phòng của người ta. Ngoài biển đông nghịt người, họ bơi, họ tắm, họ ăn uống ầm ầm
còn ông thì cứ nằm lù lù như đụn rạ nát, chán ghê cơ. Nằm để mọc nấm lấy ăn hả?
Dậy đi! Dậy đi, ra biển tắm!
Tôi mở mắt mà không muốn ngồi dậy vì toàn thân
mỏi rã rời. Mặc bà ta ca! Mặc bà ta ca!... Vơ chiếc gối
che kín lên mặt định ngủ tiếp. Tôi muốn ngủ thêm giấc nữa để hưởng trọn
giấc mơ Tiên. Giấc mơ Tiên… Xuống âm phủ chẳng ai muốn, trừ người
lúc thấy mình khổ quá thì than: “chết quách đi cho xong”, nhưng mấy ai tự “chết
quách” được ngay. Còn lên Thiên Ðường thì cả nhân loại đều muốn. Riêng tôi, được
tới Thiên Ðường một lần, dù chỉ là Thiên Ðường trong lúc mơ ngủ đã làm tôi thấy
chán. Bởi cõi Thiên Ðường trong giấc mơ ấy cũng phàm tục như chốn tục phàm cả
thôi có hơn gì, tốt đẹp gì đâu. Khi trăm tuổi, có được lên Thiên Ðường thật,
tôi cũng xin vái, xin kiếu cái Thiên Ðường mà một lần tôi đã gặp trong mơ!
Viết xong ngày 21 tháng
8, 2006
HOÀNG XUÂN HỌA
-------------------------------------
Những chú thích:
(1): Kịch Vũ Như Tô của nguyễn Huy Tưởng
(2). Thơ Nguyễn Hòa Bình
(3): Kinh
Tân ước.
(4): Thơ Gia Dũng.
(5): Câu thơ Kiều.
(6): Vế đối của nhà thơ Thanh Tịnh.
(7): Thơ Tố Hữu
(8): Theo thần thoại Hy Lạp, người gây tội ở trần
gian khi xuống địa ngục phải lăn đá ngược lên núi để chuộc tội.
(9): Văn hóa cổ thần bí phương Đông : sao Hàm Trì
chỉ người dâm đãng, trụy lạc.
(10): Thơ Hải Thanh
(11). Thơ
Dương Tường
(12): Tiểu thuyết của văn hào Nga Lev.Tolstoi.
(13): Tiểu thuyết của nhà văn hiện đại Nga
Mikhain Sholokhov.
(14): Lý Bá Sơ, nơi cải tạo tù hàng binh, tề nguỵ
thời kháng chiến chống Pháp, giờ là trại cải tạo Ba Sao tỉnh Hà Nam.