Thứ Năm, 11 tháng 7, 2024

PHẦN I - CHUYỆN CÕI TRỜI & CHUYỆN CÕI ÂM

               

                             

CHUYỆN CÕI TRỜI & CHUYỆN CÕI ÂM

                            

                                     Phần I

                                  Cõi âm (1)

 

                      “Tôi lang thang ngơ ngẩn

                      Giữa âm dương mông lung

                      Tâm tư gió cát mịt mùng

                      Cầu tinh tú xin lời tắm gội”

                     (Thơ – Nguyễn Nguyên Bảy)

 

Một ánh mắt lóe sáng như mũi tên đồng từ xa lao vụt vào tôi, không hề hay hấn chút đau, ngực tôi rộn lên rạo rực; dường như có người đẩy sau lưng, lôi tay tuồn tuột về phía trước, chân không chạm đất, như bay bay theo gió theo mây. Gió ào ào tạt hai bên má, thổi vù vù hai bên tai, cảm giác như mình đang sải tay bơi lướt từ cánh đồng này qua cánh đồng khác, từ làng này qua làng khác, qua những rặng phi lao vi vu. Bầu trời hồ thủy cao thăm thẳm nhuộm non cánh đồng lúa xanh mươn mướt tỏa hương đòng đòng thơm man mác. Gió hoang toàng thổi làm ức triệu ngọn lúa dào dạt lô xô cuộn trùng trùng muôn làn sóng xanh. Rồi như có một lực vô hình ghìm tôi đứng khựng lại trước một ngôi làng toàn nhà xây một kiểu; kiểu nhà giống hệt nhau mà tôi chưa thấy ở bất cứ làng quê hay phố phường nào trên đời, nơi tôi đang sống.

Thoáng nhìn tưởng lạ, soát lại trí nhớ lại thấy quen như đã gặp ở đâu đó. Kiểu nhà gì nhỉ, rất khó hình dung, rất khó tả. Những ngôi nhà hai tầng. Không, bán hai tầng, nửa non phía sau hai tầng, nửa già phía trước là sân giời. Chẳng nhà nào có cửa ra vào, kể cả cửa sổ. Nhà nào cũng bốn bề kín bưng, im phăng phắc tựa một trại lính đang liu thiu ngủ dưới trưa hè nắng chang chang. Một người con gái trang phục quân nhân thời chiến tranh cách đây trên ba mươi năm, tóc tết hai bím đuôi sam thả ngúng nguẩy xuống bộ ngực căng phồng hừng hực sức thanh xuân. Đôi mắt sáng long lanh với khuôn miệng cười tươi, giơ tay vẫy vẫy ý bảo tôi: “anh lên đi”. Chưa rõ nếp tẻ, chưa nhận ra người vẫy có quen biết gì mình không nên tôi do dự, vì tưởng cô gái nhầm tôi với ai đó. Không, cô đang nhìn thẳng vào tôi, xung quanh không có người thứ hai. Tôi còn chần chừ thì lại như có lực vô hình đẩy sau lưng nâng bổng người tôi lên sân giời tầng một ngôi nhà, nơi cô đang đứng khiến tôi không thể cưỡng lại. Người tôi lúc ấy nhẹ bẫng nhấc khỏi mặt đất bay, bay lên, bay lên... Trong chớp mắt đã thấy mình đứng trước người con gái trẻ đẹp, cái đẹp hồn nhiên, dịu dàng trong bộ quân phục. Cô niềm nở mời tôi vào nhà như đã từng thân thiết từ trước:

- Anh vào nhà đi.

Nhìn quanh chẳng thấy cửa vào nhà đâu, chỉ duy nhất giữa sân giời một vạt hình chữ nhật xum xuê hoa mười giờ nở đỏ tươi. Cô gái đưa tôi vào nhà theo lối hoa ấy, tụt dần xuống như đi tháng máy nhà cao tầng.

Nhìn bề ngoài ngôi nhà nho nhỏ xinh xinh, bên trong cũng bình thường như mọi ngôi nhà khác, có phòng rộng, cửa trước, cửa sau, cửa sổ kính, cửa chớp. Nhìn qua cửa sổ có đủ trời mây non nước bao la. Có trời đấy nhưng là màu trời sâm sẩm, có mây đấy nhưng là mây ảo mờ nhờ nhờ như khói như sương; có nước đấy nhưng nước lặng im như nước chảy trong tranh vẽ. Cảm thấy nước chảy mà nước không hề chảy; có núi đấy nhưng núi toàn hang động; hang động rêu phong lành lạnh một vẻ u huyền như thực như ảo.

Đứng trước cô gái trẻ có đôi mắt to đen với ánh nhìn thăm thẳm mộng mơ tôi đâm lúng túng, người tôi bỗng cứng đơ như khúc gỗ, mô đá. Cô mời tôi ngồi vào băng ghế ghép bằng những mảnh tre chín bóng nước thời gian đã trở nên màu ngà rồi cô rót nước từ chiếc ca nhôm to vào hai cái ca nhỏ. Tất cả những chiếc ca, cốc ấy đều là thứ tự tạo bằng ống phóng rốc két thường thấy ở đâu đó những năm chiến tranh. Không nhìn rõ nước chảy vào ca nhưng có mùi trà thơm ngào ngạt tạt vào khứu giác. Tay rót nước, mắt cô chớp chớp liền liền, liên tục; sau mỗi cái chớp mi là một ánh mắt ném vào tôi, cả nụ cười nữa. Nụ cười như gợi, như hỏi, như trêu, như căn vặn, như nhắc tôi nhớ về những kỷ niệm mà tôi thì vô tâm không nhớ gì, không nghĩ gì xa xôi. Lúc ấy tôi như người đang mơ. Mơ ngủ là do giấc mơ dẫn dắt làm sao nghĩ được điều gì nữa.

 

 

 

                                     Phần I

                                  Cõi âm (2)

 

Bất ngờ lạc vào xứ lạ, bất ngờ gặp cô gái trẻ nên tôi bị cuống, bị lú mê chẳng thể nhớ ra những sự việc đã trải qua trong đời mình, cái sự người đời thường gọi là quá khứ, là dĩ vãng. Quá khứ và dĩ vãng khi nhớ lại phải có người từng trải qua với mình, từng chung sống cùng mình khơi gợi lại. Trường hợp của tôi lúc ấy, người khơi gợi lại là một cô gái trẻ, một cô gái thời hiện tại. Những cô gái cùng thời với tôi ngày xưa sao còn trẻ như cô gái này được; những cô gái hiện tại nếu có quen biết tôi trên phương diện công việc nào đó, quen biết trong giao tiếp hằng ngày thì tôi phải đáng tuổi cha hoặc tuổi chú của cô. Còn cô gái này sao có thể vô tư liếc mắt đưa tình với tôi thế chứ? Trí nhớ của tôi thuộc loại rất tồi tệ về nhận diện. Để găm vào trí nhớ một người thì người ấy phải quen lâu lâu, chơi với nhau lâu lâu tôi mới nhớ mặt, thuộc tên, nếu bẵng đi vài năm không giao tiếp, không gặp lại là tôi quên khuấy mất. Nhiều lần, người quen cũ gặp, vồ lấy vai, nắm tay gọi đúng tên mà tôi vẫn ớ người ra một lúc không sao nhớ nổi người đó là ai; phải đến lúc ngưới ấy kể ra một lô một lốc những kỷ niệm tôi mới nhớ ra và “à nhỉ, cho mình xin lỗi”, rồi chữa lỗi, chữa tật đãng trí bằng cách reo lên và vồ lấy tay bạn hoặc người bạn mà xoa xít để xí xóa lỗi trí nhớ kém của mình. Sau đó phải nhờ đến “cuốn phim” quá khứ lưu trong bộ não tồi tệ quay lại từng quãng, từng đoạn về người bạn vừa gặp lại.

Tôi hững hờ đỡ ca nước mời từ tay cô gái vừa để quan sát căn phòng, vừa quan sát cô gái với mung lung ý nghĩ trong đầu, không biết mình quen cô gái này ở đâu? Nếu quen, thì quen trong trường hợp nào? Đời mỗi con người có vài chục, vài trăm, thậm chí đến hàng nghìn mối quan hệ thân sơ, trong công việc, nơi công tác. Quả thực lúc ấy tôi không thể nhớ ra nổi gì nữa .

Nội thất căn phòng bài trí kiều từ thời ở lán trại binh trạm ngày chiến tranh mà tôi từng gặp, từng ngủ mỗi lần sau những đêm hành quân đường dài giữa dải Trường Sơn bạt ngàn mưa nắng. Chăn màn được gấp vuông vắn xếp gọn gàng một góc trên sạp nứa, một chiếc võng bạt treo buông lơ lửng hai đầu dây võng buộc thít lẳn vào hai cây cột nhà. Trên chiếc bàn ghép bằng những mảng tre đập dập ghép thành, trên bàn chiếc vỏ đạn 37ml bằng đồng cắm mấy bông hoa mua tím xòe năm cánh nở tươi nhụy vàng. Cách bài trí căn phòng đầy ngụ ý gợi về những kỷ niệm xưa, về ý thích của cô gái lính binh trạm Trường Sơn mà tôi đã gặp, đã công tác cùng một thời gian vậy mà tôi vô tâm chẳng nhớ gì. Nét mặt cô gái trở nên buồn rượi, đôi mày nhíu lại đẩy ánh mắt về phía xa xôi thăm thẳm tỏ rõ sự giận dỗi trách móc. Rồi mỗi tay cô cầm một bím tóc tung qua vai nghiêng người điệu đà rút một cành hoa mua trong chiếc bình bằng vỏ đạn pháo xé vụn từng cánh tung cao lên đầu, miệng lành lạnh một nụ cười mỉm, kèm cái bĩu môi và ngửng mặt lên cho những cánh hoa rơi xuống mặt, xuống tóc; cánh chuội đi, cánh giắt lại trên tóc và cứ thế cô cười cười nói nói như mình đang vui lắm, nhưng bên trong tiếng cười, lời nói ẩn chứa sự hờn dỗi. Hờn dỗi trước sự vô tâm của tôi. Khi thấy tôi không còn nhớ gì, không nhận ra những kỷ niệm đang bày ra trước mắt. Cô cười phá lên một tiếng rõ to. Tiếng cười càng chanh chanh quất quất:

- Anh Phong quên Huệ rồi sao? Huệ K9 đây. Đàn ông các anh đoảng vị quá lắm, chẳng một chút nặng lòng với những kỷ niệm xưa chút nào nữa!

 

                                                        

                                    Phần I

                                 Cõi âm (3)

 

Cái ngày xưa ấy tôi được ban hậu cần đơn vị cử đến phối hợp với K9, nhận và phân phối gạo cho các đại đội trong tiểu đoàn. Gọi là kho cho ra vẻ to tát, thực chất chỉ là trạm giao nhận quân lương cơ động. Kho dựng kiểu chòi canh nương rẫy, mỗi chòi chứa vài chục bao tải gạo nằm rải rác dưới các lùm cây rậm rạp cách xa binh trạm, thường là dưới khe một con suối cạn trong rừng già thâm u cách xa trục đường lớn. Lính đến lấy gạo, quần nát cỏ thành những lối mòn ngang dọc, máy bay địch bay qua bay lại xoèn xoẹt nhìn thấy sinh nghi, hễ đi đánh bom đâu về còn thừa bom thừa đạn là chúng lại lao xuống, lần thì ném quả bom phát quang, lần bắn loạt đạn rốc két để thăm dò động tĩnh. Bom đạn địch không gây hại lớn, nhưng lần thì bị tốc mái, lần sạt một góc kho vỡ vài bao, gạo tung tóe chảy ra đất, sau đó chúng tôi phải chặt cây rừng sửa chữa, cắt cỏ gianh đắp điếm lại mái khi mưa khỏi dột, thu lại gạo sạch dồn vào bao khâu đóng lại. Một bao gạo vào đến chiến trường tốn bao mồ hôi, thậm chí cả xương máu của đồng đội. Kho quân lương chỉ có ba chiến sĩ gái trông coi do Huệ làm trưởng, nhập và cấp phát theo phiếu cấp quân lương của thủ trưởng hậu cần đơn vị chủ quản cho các đơn vị nhỏ, cả cho các đơn vị khách vãng lai khi hành quân qua do mặt trận có lệnh, duyệt cấp. Chúng tôi là đơn vị tăng cường cho chiến dịch cũng được mặt trận cấp gạo ở đây. Thấy tôi đến phối hợp, trạm bèn rút hai chiến sĩ gái đi mở thêm kho khác ở triền núi bên kia để tranh thủ mùa khô nhập gạo từ hậu phương vận chuyển vào để dự trữ cho mùa mưa tới, cho chiến dịch sau.

Cả ngày hai chúng tôi như đánh vật với việc nhập gạo của lính vận tải gùi đến. Giữ miệng bao cho họ dốc từng ba lô gạo vào, đầy bao thì khâu lại xếp lên các chòi để xuất dần cho các đơn vị đến nhận. Vào sổ nhập, sổ xuất, cộng, trừ bù đầu cả ngày; nhiều bữa không nấu được cơm ăn, phải ăn tạm lương khô cho qua bữa, hoặc nấu một bữa ăn hai.

Huệ, gốc người Hà Nội, cùng đồng hương nên chúng tôi thân nhau nhanh chóng, chẳng phải mất nhiều thời gian rào đón thăm dò và giữ ý tứ như trường hợp các cô gái vùng miền khác khi làm việc với nhau. Được cái Huệ khá vui tính, rất biết pha trò cười khi nói chuyện. Cô thuộc nhiều thơ Bút Tre, “chế” thơ Bút Tre xen vào câu chuyện cho thêm thi vị. Huệ đã “sáng tác” mấy câu Bút Tre trêu tôi: “K9 được anh Vũ Văn/ Phong… ta nhút nhát mặt nhăn như bì (bị)”.

Đêm ấy, trăng tỏa sáng dát vàng mây núi, láng mỏng tang màn sương lạnh, cái lạnh sương núi gió ngàn cứ tràn tràn thẩm thấu vào từng vùng sâu cơ thể, tâm trạng, gợi nỗi nhớ nhà da diết. Người xưa từng khuyên trai gái không nên đi bên nhau, ở bên nhau giữa đêm trăng thanh vắng, trai dễ sinh thèm muốn, gái khó giữ nổi mình. Người xưa cứ hay suy diễn, khắt khe với tuổi trẻ hết đời này qua đời khác mà đã mấy ai “giữ được mình” khi người ta… yêu nhau! Tôi đang ở bên người con gái đẹp dưới ánh trăng huyền ảo mang mang màu cổ tích khơi khơi ngây ngất mà nào có thèm muốn rạo rực gì đâu. Đêm ấy, đêm trăng ấy, giá đang cùng em trong công viên Thống Nhất hay trên đường Thanh Niên lộng gió Hồ Tây thì chắc rằng tình trạng sẽ khác, tôi sẽ không là kẻ sỏi đá trước người con gái đẹp như mộng giữa rừng già trong đêm trăng ngàn ấy, để rồi phải nhận những ánh mắt hờn dỗi tựa như bắt đền của em những ngày sau đó.

Chúng tôi ngồi đợi từ chặp tối đến mãi khuya chưa thấy gạo về. Tự nhiên lúc ấy địch cũng không cho máy bay thả đèn dù tuần đường như quy luật chúng thường làm vào giờ ấy các đêm trước đó làm cho cánh rừng trở nên khó hiểu. Khó hiều vì bỗng nhiên đêm ấy tạnh tiếng bom. Tạnh tiếng bom tiếng đạn hóa ra cũng buồn. Đêm ở rừng mà buồn thì tốt nhất là đi ngủ. Tôi mắc võng leo lên nằm và dặn Huệ:

- Gạo về thì gọi tôi đồng chí Huệ nhé!

Huệ cũng leo lên sạp nứa:

- Em cũng ngủ đây, giờ này chưa thấy đoàn vận tải nào đến, chắc đêm nay gạo không về…

 

                                                                            

 

 

                               Phần I

                            Cõi âm (4)

 

Căn lán lợp cỏ gianh tựa vào vách đá khuất cạnh một hườm núi, không sâu nhưng khá ngóc ngách. Đơn vị cho dựng lán sát hườm đá để các chiến sĩ nghỉ ban ngày có chỗ tránh bom. Trong chiến tranh, nơi nào địa hình thiên nhiên lợi cho việc giấu quân, giấu hàng hóa, vũ khí là đơn vị cho dựng lều lán ở đó. Tôi nằm võng, Huệ nằm trên sạp nứa. Chuyện vóng sang nhau đôi ba câu rồi tôi thỉu đi chìm theo tiếng chim “bắt cô trói cột” lảnh lót văng vẳng lúc gần, khi xa vời vợi dội vào rừng đêm lai láng ánh trăng, râm ran tiếng dế, tiếng vạc sành cành cạch liên hồi gọi bạn tình ngoài các lùm cây tạo thành một dàn âm thanh sôi động như xắn nát ánh trăng sáng bạc ra từng mảnh rải xuống khắp gốc cây, ngọn cỏ lại thêm hai con thạch sùng núp đâu đó trên liếp nứa cứ chốc chốc lại chậc chậc lưỡi hòa theo làm cho đêm rừng càng thêm khuya khoắt, hoang vắng, tuy lúc ấy đêm chưa thật đã khuya khoắt gì lắm.

Con chim “bắt cô trói cột” to bằng con ngỗng từ đâu xà xuống sấn tới mổ mỏ vào cánh tay tôi, rồi nhẩy cờn cờn bỏ chạy. Bị con chim bất ngờ mổ đau, tức quá tôi đuổi theo định túm bắt. Con chim lạch bạch chạy trước, tôi hăm hở đuổi sau, đến sát một vách đá thì con chim cất cánh bay vụt lên đậu trên một mỏm đá cao hơn, kiễng chân ngó xuống ngật ngưỡng gật gù cái đầu, bộ mào đỏ cùng cái mỏ vàng chế giễu tôi: “Đuổi chi cho mệt, đuổi chi cho mệt… đuổi sao cho được, đuổi sao cho được…”. Lúc ấy tôi như cậu bé bị chọc tức cố rượt đuổi để bắt con chim. Tôi leo đến đâu con chim lại tung cánh bay cao hơn lên nữa. Tôi gần đuổi kịp, khi sắp túm được, con chim lại tung cánh bay sang mỏm đá khác. Bỗng tôi tuột tay rơi tụt xuống chân núi, ngã lăn ra đất, một tảng đá rơi theo đè lên người. Tôi cố giẫy giụa hất tảng đá ra, tảng đá càng đè nặng thêm không sao hất ra nổi. Vì lúc ấy chân tay tôi như không xương, như bị trói chặt. Tôi co rúm người vị sợ. Sợ quá, tôi choàng mở mắt. Hóa ra là người đè chứ không phải đá đè. Hai đầu dây võng cứ trĩu xuống căng ra kéo thít vào hai cây cột rít lên kèn kẹt. Huệ đang cứ má, môi, cổ tôi cụi trán day day, cụi mũi xịt xịt, hít hít; môi Huệ chộp lấy môi tôi hôn tới tấp, mút chùn chụt khắp má khắp trán, lia cả đầu lưỡi vào miệng tôi khoắng đi khoắng lại như muốn tìm kiếm vật gì trong đó. Toàn thân tôi đờ ra không biết hưởng ứng thế nào, mấy lần định giằng ra mà không sao chủ động giằng ra nổi. Tim tôi đập thình thình trong lồng ngực. Ở tuổi hai tư, lần đầu tiên được cô gái ôm hôn, người tôi run bắn vì hồi hộp, cả vì sợ. Bàn tay nữa, ban tay Huệ nóng hôi hổi sờ vào chỗ… của tôi túm túm, nắn nắn nhưng của tôi vẫn nhũn nhèo chuội đi.

Mỗi lần bàn tay Huệ lần lần chạm tới là tôi vội vàng co đùi, lui mông để tránh, nhưng lòng võng qúa hẹp, mông tôi không thể lui xa hơn được, hễ lui mạnh lại bị mép võng cản lại, bàn tay Huệ quờ theo túm lại ngay. Không rõ sao từ lúc mở mắt ra biết mình không mơ, tôi hoang mang một nỗi sợ. Một nỗi sợ mơ hồ xa xôi từ ký ức hiện về, nỗi sợ ấy còn nặng hơn tảng đá đè lúc tôi mơ, người tôi rộn rạo bủn rủn chùng thõng mềm nhũn như cua bấy. Sau đó Huệ lôi thốc tôi lên sạp nứa, cởi khuy quần dài, tụt cả quần đùi của tôi ra rồi Huệ cứ nắn nắn xoa xoa, Huệ cởi bỏ quần áo của mình nằm đè lên áp của Huệ vào của tôi day đi day lại. Thấy “của tôi” vẫn nhũn nhùn không cụng cựa. Huệ ghé sát vào tai tôi thì thầm, làm như quanh đó đang có người, nói to sợ họ nghe biết: “Anh ơi chỉ thế này thôi à?”. Tôi vô thức, cũng: “Ừ ờ”. Huệ bảo: “Thế này lấy nhau là có con hả anh?”.

Tôi ngượng, tôi xấu hổ. Ngượng và xấu hổ nên tôi ôm ghì lấy Huệ chứ không phải ôm ghì vì ham muốn, tôi ghì để che giấu sự xấu hổ của mình. Sau đó hình như do sự cuốn hút bản năng tôi cũng hôn tới tấp lên má lên môi Huệ. Và bàn tay nữa. Lần đầu tiên trong đời bàn tay được cuống quýt lần lần tìm “vùng trời” ấy để khám phá! Khi tìm được bàn tay dừng lại úp chặt lấy “vùng trời” nóng hôi hổi ấy. Rồi nào xoa nào nắn làm cho Huệ cứ: “Ới giời ơi, ới anh ơi”… liên tục, man dại. Bàn tay Huệ lại vơ, túm của tôi nhét vào, nhưng “của nợ” ấy vẫn như khúc dọc khoai mùng bị chần nước sôi nhũn nhùn chuội ra quay lơ im thin thít không ngọ nguậy. Huệ hổn hển: - “Làm thế nào anh ơi, làm thế nào… anh… anh…?”.

 

                                            

 

                                Phần I

                             Cõi âm (5)

 

Tôi lăn xuống nằm cạnh Huệ kéo tấm chăn đơn đắp kín cả hai đứa cho khỏi lạnh, cũng là để định lại tinh thần. Ôm nhau trong chăn, làm tình với nhau trong chăn cho đỡ ngượng và có thể hưng phấn được lên. Khi “của tôi” hơi cưng cứng một chút, định leo lên người Huệ thì cũng là lúc tiếng máy bay xé trời xẹt qua. Hai đứa vội vàng buông nhau ra để chạy vào hang đá tránh bom, không kịp cả vơ tìm quần áo cứ thế trần truồng tụt xuống đất trong chớp lửa bom. Chớp bom lóe sáng trông rõ từng gốc cây ngọn cỏ ngoài rừng, đất đá quăng rào rào trên mái lán, xung quanh nhà kèm một loạt tiếng nổ làm tôi ù đặc hai tai. May mà loạt bom rơi trên đỉnh núi chứ nó mà rơi trúng lán chắc chúng tôi chẳng còn gì. Máy bay đi rồi, chúng tôi trở về nằm ôm nhau tiếp, lúc tạo được hưng phấn, đang định… thì máy bay lại ào đến. Rồi cứ thế mười lăm phút một trận, chúng đánh tọa độ cầu âu, ào đến dội một loạt bom rồi bay đi, một lúc sau lại ào đến. Bom nổ đầu khu rừng này một loạt, bom giội góc núi kia một loạt. Chúng tôi chạy khi loạt bom nổ xong, chúng tôi trở lại ôm nhau, máy bay xẹt đến chúng tôi lại chạy… liên tục như thế, hễ cứ gần thành công lại phải bỏ cuộc mà chạy. Sau đó bao nhiêu cố gắng của hai đứa đều trở nên vô nghĩa. Vừa nản chí, vừa hết khí thế, “hắn” nằm ngoẹo cổ giữa cặp đùi mặc cho Huệ vần vò. “Hắn” sợ, cả tôi cũng sợ. Sợ vì bom đạn một phần, điều sợ lớn hơn là sợ Huệ mang thai, cấp trên sẽ ghép vào tội hủ hóa thì khổ suốt đời. Hủ hóa thời ấy ai mắc phải là một tội lớn. Tội bất thành văn, kỷ luật nội bộ, nhưng đứt luôn sinh mạng chính trị; có Đoàn mất Đoàn, có Đảng thì mất Đảng, là cán bộ thì mất chức, thân thế, sự nghiệp bao năm phấn đấu đổ sông đổ biển, tay trắng tức thì, còn bị người đời khinh rẻ, ghẻ lạnh nữa chứ.

Bom đạn, cộng với nỗi sợ xa xôi ấy đè nặng làm tôi bải hoải tinh thần. Toàn thân tôi đóng băng trước sự dâng hiến của người con gái giữa rừng Trường Sơn đêm ấy.

Tôi định kiến với chuyện hủ hóa từ năm mười bốn tuổi. Ngày ấy, ba tôi, giám đốc một xí nghiệp, thương một phụ nữ lỡ dở. Người phụ nữ ấy là mối tình đầu đời của ba tôi. Chiến tranh, người ra trận, người tản cư ra hậu phương, gần hai mươi năm sau gặp lại, ba tôi mới biết do “người ta” chờ đợi ba mà lỡ dở cả cuộc đời. “Tình cũ không rủ cũng đến”, hai người vụng trộm quan hệ với nhau, họ tặng nhau một đứa con làm “kỷ niệm”. Chuyện lộ ra, giậu đổ bìm leo, một tội mọc thành ba bốn tội. Vì ba tôi và hai ông phó giám đốc đang có những bất đồng trong việc lãnh đạo xí nghiệp nên mọi chuyện lại càng thêm phức tạp! Chuyện là thế này: Cái nhà máy nhỏ con chưa đầy ba trăm cán bộ, công nhân viên mà họ chia phe chia cánh năm bè bảy bối âm mưu hất, lật nhau để tranh chức tranh quyền thì làm sao mà ổn định sản xuất cho ra lãi để nâng cao đời sống của công nhân viên chức. Mà lỗ hay lãi việc gì họ phải lo, lãi thì nộp nhà nước, lỗ đã có anh Liên Xô chịu. Tiếng là chủ nhân ông đất nước đấy nhưng mấy khi họ quan tâm đến vị trí ông chủ là mình. Họ tự đánh mất quyền chủ nhân ông của họ bằng thói ăn bơ làm biếng, thói vô trách nhiệm, bằng cái ý thức kẻ làm thuê chứ không phải người làm chủ theo lý thuyết định ra. Làm ăn thua lỗ, bị cấp trên kiểm điểm thì anh có tóc đi mà nghe kiểm điểm, cấp trên đâu có gõ anh trọc đầu. Giám đốc, bí thư lên tỉnh mà nghe kiểm điểm, cấp trưởng phòng, phó phòng, các ban bệ có ai phải đi nghe kiểm điểm đâu mà hãi. Các ông đi nghe kiểm điểm về, họp kiểm điểm lại các phòng ban thì mọi người cũng biết vậy, rút kinh nghiệm vậy! Năm sau có lỗ nữa thì lại kiểm điểm, lại sửa chữa. Mình là cấp dưới cứ việc đi làm đều đều, trừ bốn Chủ nhật, tháng có mặt tại cơ quan hai lăm, hai sáu ngày công để lĩnh đủ lương, lĩnh đủ mọi tiêu chuẩn tem phiếu, chẳng hơn cũng không thiệt là quá được, quá đủ.

Một số những bê bối của phòng cung ứng vật tư do nhân viên tiếp liệu làm ăn tư túi, đánh quả riêng, thông đồng móc ngoặc với tư thương tuôn vật tư của xí nghiệp ra chợ đen để chia nhau. Phòng hành chính thì đem sản phẩm sản xuất theo kế hoạch nhà nước giao, “đánh bùn sang ao” thành sản phẩm kế hoạch 3 liên kết với nông trường chăn nuôi đổi lấy bò về làm thịt; tiếng là để nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân xí nghiệp. Thực chất, công nhân viên tháng đôi lần đến vòng lượt được mua ít thịt bò thì chỉ là mấy lạng… bạc nhạc, ít lòng phèo bèo nhèo, hoặc dạ sách, miếng tiết, miếng gân ninh mãi mới nhừ. Còn bao nhiêu miếng ngon, nạc thăn, nạc mông họ bán cho con buôn ngoài chợ lấy lãi dấm dúi chia nhau. Cuối năm kế hoạch không hoàn thành, thâm hụt ngân quỹ, họ đổ tội cả lên đầu chánh giám đốc! Họ vu cho ông đem tiền nhà nước tiêu vào việc ăn chơi hủ hóa bừa bãi, vi phạm đạo đức của người cán bộ cách mạng. - “Dân tiểu tư sản là thế, trước sau gì cũng lòi đuôi tiểu tư sản vô đạo đức ra...!”

 

 

 

 

                                            Phần I

                                         Cõi âm (6)

 

Tổ tiên ta khi đặt ra cặp từ “đạo đức” nghe đầy một tiêu chuẩn phạm trù phẩm chất tốt đẹp của con người, hàm chứa sự rèn luyện, tu dưỡng lâu năm mới có được. Lại không tính rằng: Nếu đem chữ “đạo” ghép chung với một từ khác thì chữ đạo không còn mấy thanh cao như khi đứng chung cùng chữ “đức”. Tỉ như ghép với chữ “chích” (đạo chích), hay chữ “tặc” (đạo tặc) chẳng hạn!

Xin lái chuyện sang một vị đích tôn của một dòng họ người làng tôi. Vị này có ba năm theo học chữ nho thời để chỏm của một thày đồ kiêm thầy bói. Chẳng rõ ông thày đồ kiêm thày bói này “trồng trọt” vào “bụng” vị mấy mẹt chữ thánh hiền, mấy chục cái điển tích Tầu rắc rối từ thời Bàn Cổ đến Đường - Tống- Nguyên - Minh… mà vị hay cả nghĩ, hay kiêng khem vơ vẩn để “bảo vệ” cái phần hồn cao quý của anh nhà nho, học vấn ngắn cũn cỡn cái quần thâm đất may gạn vải. Không phải vị ấy kiêng khem thứ gái đẻ kiêng: “Thịt gà cá chép ba ba” mà kiêng khem hình thể cái… (không viết ra đây được). Cắt chéo góc bánh chưng làm tám miếng cho đều nhân thịt, nhân đậu nhất định vị ấy không đụng đũa. Ở nhà vị ấy rất thích ăn bánh chưng, vợ vị ấy khi bóc bánh, bao giờ cũng thắt lạt cắt làm tám phần vuông chằn chặn thì vị ấy mới ăn. Đi uống café với nhau, bánh gatô hình tròn, hình vuông thì vị ấy chịu khó ăn cho kỳ nhẵn đĩa; nếu bánh hình tam giác là vị ấy uống café suông với lý do phòng bệnh từ xa: - “Mình không thích ăn của ngọt. Ăn ngọt nhiều dễ mắc bệnh tiểu đường”! Nhưng vị lại xúc vài ba thìa đường vào ly café uống cho khỏi đắng! Kiêng kem kỹ vậy không rõ vị mò mẫm trong đêm tối ra làm sao mà vợ vị ấy đẻ sòn sòn bốn cô con gái rượu liền tù tì. Gần sáu chục cái lá vàng rơi, giật mình thấy thiếu một cậu ấm chống gậy khi về cõi Hoàng tuyền, vị ấy vội vàng đi bao một em khuyết chồng để tu hú đẻ nhờ kiếm tí trưởng nam “nối dõi tông đường” dòng họ hay kiêng khem nhà vị. Không hiểu mười hai bà Mụ chơi khăm vị ấy hay các bà già quá sinh lú lẫn, khi “nặn” cậu ấm cho vị ấy các Mụ quên “nặn” cái “vòi” thành thứ cô gái đẻ thuê vẫn tòi thêm cô gái rượu nữa để Tết nhất, Tết nhị, Tết tam, Tết tứ hàng năm có non nửa tá anh con rể đến biểu tết vị ấy cả năm con gà trống thiến, kèm năm chai rượu Vodka, tha hồ cho vị cắt tiết, tha hồ say bí tỉ cho nhanh cạn mùa xuân.

Chung chăn với đám bác Nhiêu, anh Xã (hai chức vị phải mua bằng tiền để tránh phu phen, tạp dịch ở làng, xã ngày xưa), đám bố cu, mẹ đĩ được cách mạng huy động theo cầm cờ, hô khẩu hiệu cho thêm đông người thời tiền khởi nghĩa, cho đủ ban bệ. Cái đám dân ngu khu đen thiếu hiểu biết ấy nếu không được hướng dẫn, định hướng cẩn thận, khi lật đổ được đài Cửu Trùng rồi họ dễ manh động “thừa thắng xông lên” đè bẹp Đan Thiềm và tiêu diệt luôn Vũ Như Tô (1) cho gọn. Với cách hiểu của đám người này cứ cái gì do giới trí thức và người lao động có tay nghề cao xây dựng ở các thời trước đều là của phong kiến đế quốc cả, phải đào tận gốc trốc tận rễ! Tiếng đi tham gia kháng chiến mà nhiều anh chưa bắn đứt nửa sợi râu xồm thằng Tây. Bắn chim, bắn nai, bắn hoẵng về cải thiện đời sống riêng, để ăn tươi với nhau thì có. Đây không phải số nhiều, nhưng những kẻ thuộc số cá biệt ấy cũng không phải hiếm. Có anh đơn vị cử đi hái rau tàu bay, đi lấy măng đã đi “lạc” vào rừng, vào bản để cho mế nhận làm con nuôi, để ở lì đó cho mế vui nương vui rãy; thậm chí, có kẻ lấy vợ, sinh con… khi đơn vị cử người đến tìm, đón mới về! Kháng chiến thành công cũng được “trên khen ta lính chiến hào”(2) nào giấy khen, bằng khen, huy, huân chương mà thành tích chưa chắc bằng một bác phú nông. Tuy không cầm súng ra trận ngày nào, nhiều bác phú nông, địa chủ, tư sản cũng ủng hộ cho kháng chiến hàng tấn thóc, tiền và vàng để nhận tờ giấy biên lai rồi bỏ quên đâu mất, hay mối xông mất lúc nào không nhớ nữa. Không được tặng huân, huy chương đeo ngực nhưng các bác vẫn tự hào với lòng mình, riêng lòng mình rằng mình cũng được góp ít mồ hôi cho kháng chiến thành công, cho nước nhà độc lập, những thứ khen thưởng kia chỉ là hình thức, có thì cũng tốt mà không, cũng chẳng ảnh hưởng gì đến tình hình kinh tế nhà các bác.

 

-----------

(1): Kịch Vũ Như Tô của nguyễn Huy Tưởng.

(2): Thơ Nguyễn Hòa Bình

 

 

                                  Phần I

                               Cõi âm (7)

 

Những kẻ cơ hội, dây máu ăn phần ấy biết gì về quản lý con người, quản ký kinh tế. Hạng người quen ăn phần chia chác xôi thịt ở góc đình làng, mắt họ nhìn vào đâu cũng thấy có phần được chia, phần được ăn, được chồm chỗm ngồi mâm trên. Vị thế không được ngồi mâm trên, phải tụt xuống ngồi mâm dưới họ cũng nhất quyết đòi ngồi bằng được chiếu hoa! Tài cắp vặt của hạng này khỏi phải bàn. Kẻ cắp chợ Đồng Xuân nhiều anh còn phải “về quê” học nghề “phở gia truyền” của họ.

Cô gà mái tơ nghe tiếng anh gà trống nhà bên mổ mỏ vào viên sỏi kêu tục tác… tục tác… (thóc thật… thóc thật”…), lại tưởng là thóc thật, cô mái tơ tí tởn chui bờ giậu lẻn sang để cùng “chàng” xơi “thóc thật”, tối không thể về chuồng nữa. Bởi đời cô đã đứt từ lúc nhảy rào sang nhà hàng xóm để ăn “thóc thật” cùng chàng gà trống. Nhà có buồng chuối để chờ thật già, chờ chín cây ăn cho thơm cho ngọt sắc, sáng hôm sau ra thăm vườn chỉ còn lại đoạn còng xanh bị thiến nhựa chảy ròng ròng. Ổ trứng gà mẹ đang ấp ngoài chuồng, tối đi ngủ quên không cất cũng bị bê mất luôn. Cực chẳng đã, phải đem giấu ổ gà ấp vào buồng ngủ là cả một điều phiền phức cho người ngủ trong đó, bọ mạt gà đêm bò sang người đốt nhí nháy ngứa ngáy cả đêm, rất khó chịu. Muốn được lứa gà mẹ tròn con vuông đành phải hiến thân mình cho bọ gà đốt nhay nháy ba lần bảy là hai mươi mốt ngày đêm. Đến nỗi dân gian phải đặt vè để hù dọa: “Tội nhất ăn trộm trứng gà (tội ăn trứng ăn con)/ Tội nhì cắt tiết, tội ba trộm bò”, chúng nó cũng đâu có hãi sợ ba câu vè đồng dao vớ vẩn. Làng xóm ngày nào cũng om sòm rác tai vì những tiếng chửi, rủa mất trộm mất cắp. Hết bà xóm ngoài chửi mất gạo, bà xóm trong rủa sả mất thóc, chị xóm đình kêu mất váy lĩnh. Gà gáy canh ba, bác thợ cày chợt tỉnh giấc ra rút rơm cho bò ăn thêm để mai đi cày sớm thì chỉ thấy còn lại cái chuồng rỗng không. Ngay lúc ấy bác thợ cày cầm khoanh dây thừng chạy khắp cánh đồng đi tìm, vì sợ bò xổng chuồng đi ăn lúa, hoặc giẵm đạp nát hoa màu ruộng người ta, có mà bán bò đi để đền. Tìm mãi đến sáng chẳng thấy bò đâu, lùng sục khắp làng trên xã dưới, rặng tre, bụi duối cũng biệt vô âm tín con bò đêm qua “tuột thừng” đi đâu mất. Tìm mãi đến trưa con, chiều cái chẳng thấy tăm hơi con bò đâu, lúc ấy mới cho là mất thật. Chỉ còn biết về xui vợ ra đứng giữa ngã ba đường làng réo to chửi tới cao tằng tổ tỉ, cao tằng tổ khảo, thúc bá đệ huynh… cái đứa đêm qua trộm bò của bà… Chửi chỉ mỏi mồm (vừa mất của vừa mỏi mồm). Các nhà sư không biết nói tục, chửi tục nhưng bị mất trộm nhiều lần bức xúc quá không đừng được cũng đành giấu Phật Thích Ca, vụng Phật Bà Quan Âm ra rõ xa cửa chùa đứng: “Bá ngọ cái đứa ăn trộm của chùa”, nghe cứ nhồn nhột cả nhĩ tai. Ngay từ lúc dân còn nhường nhà cho ở, nhường ổ rơm cho ấm, họ đã trổ tài đạo điễn… ăn rất chi thạo nghề đạo diễn:

- Bố ơi, nhà “ta” nuôi chi những năm con chó cơ ạ?.

- Nuôi cho nó giữ nhà chứ chú!

- Chó giữ nhà chỉ cần một đến hai con sủa đánh tiếng kẻ trộm đã đủ sợ són ra quần, việc gì phải dùng đến nửa tiểu đội chó để chúng ăn hại cơm giời ạ!

- Chó mẹ đẻ một lứa sáu con, con nào cũng huyền đề bốn chân, lưỡi đốm, tai vểnh, mắt xanh, yếm trắng, tướng chó này vừa khôn vừa dữ vừa chung thành với chủ, bán đi tiếc lắm.

- Nhưng bố ơi, bảy mẹ con chúng nó xơi của bố ngày đấu gạo chứ chả ít!

- Ừ, thì có sao cho ăn nấy, cơm hớt ấy mà; đun rơm đun rạ, cơm đầu nồi, trốc vung vừa oi khói, vừa dính gio muội người không ăn được thì cho chó ăn, có cho chúng ăn cơm ngon đâu mà tiếc. Nhà giầu nuôi ngựa để cưỡi, nhà nghèo nuôi chó nuôi mèo làm bầu bạn cho vui cửa vui nhà. Chắc quê các chú rào làng “kháng trộm”, chống cướp tốt lắm nên mới không cần nuôi nhiều chó giữ nhà. Quê các chú nghiêm nhỉ, không có lũ lưu manh, trộm cắp. Sướng nhỉ!

- Nhưng bố ơi, gà mái ghẹ, cầy tơ là ngon nhất hạng. Chó già dai nhách ăn chán chết, làm thịt đi, chúng con “tương trợ” một tay…

Cách dân vận kiểu "đạo diễn ăn" của mấy anh Nhiêu anh Xã khéo mồm làm sao, cứ ngọt như mía lùi mà đắc dụng. Bác chủ nhà nghe bùi tai, xiêu lòng xổ dạ ra ngay, đưa thòng lọng cho mấy chú tròng cổ, cắt tiết làm lông thui vàng, “tương trợ” giúp những xiên chả nướng, nồi nhựa mận, đĩa thịt đùt, thịt mông luộc vàng ngậy, đĩa dồi thái vát khúc nào khúc ấy bóng nhẫy mỡ chó, trông rõ nhân lạc nhân đậu xanh bên trong hằn rõ trên da miếng dồi, cả nắm lá mơ tam thể, củ riềng thái lát để cạnh. Lính ta làm công tác dân vận rất chi có trình độ dân vận. Ấy là họ chưa đi học Liên Xô, Trung Quốc chuyên sâu về dân vận lớp nào đâu đấy! Chỉ học truyền miệng thôi mà trình độ đã cao cấp vậy. Chỉ số IQ của các nhà "đạo diễn ăn" này có lẽ cao nhất thế giới, hơn hẳn người Do Thái là cái chắc!

Trao quyền lực, trao tiền bạc vào tay mấy chú môi lúc nào cũng mấp máy đòi ăn gì mà cơ quan chả xảy tham nhũng, tham ô. Những vị chức sắc ấy có mắc khuyết điểm ở cơ quan này lại được chuyển qua cơ quan khác, nắm chức to hơn, cao hơn. Ba tôi cũng là cấp dưới, cấp cơ sở, giám đốc cấp cơ sở làm gì có quyền được chọn cấp phó cho mình. Giám đốc, phó giám đốc các nhà máy trực thuộc tỉnh, đều do ban tổ chức tỉnh cử về, hay trên thích ai thì đưa người ấy lên.

Một ngày đang ngồi viết kiểm điểm về “tội” hủ hoá của mình tại cơ quan, ba tôi bị cái quạt trần tuột móc rơi trúng đầu làm ông chết tại chỗ. Thế là các loại “thông tấn” vỉa hè tung tin ba tôi tự tử để chạy tội tham ô tiền bạc của cơ quan đem bao gái! Nhiều người biết ba tôi bị đổ oan, cũng chẳng ai dám đứng ra minh oan cho ông. Ông chết rồi họ nhờ vả gì được nữa mà minh oan giúp ông, lâu dần thành vấn đề của lịch sử, cho qua đi! Cái chết hi hữu của ba tôi vô tình thừa nhận mình phạm tội để đám bác Nhiêu, anh Xã ấy phủi tay mà trong sạch, mà thăng tiến. Chuyện đó như một tảng đá đè nặng tuổi thơ tôi.

 

                                          

 


                               Phần I
                            Cõi âm (8)

Chúng tôi quấn lấy nhau trên cái sạp nứa dã chiến không mấy vững chắc nên liên tục phát ra tiếng sột soạt. Em đè lên tôi, tôi vật em xuống đè lại, cứ thế người đè đi kẻ đè lại xoắn xuýt. Em hổn hển thì thầm bên tai tôi những lời ngọt ngào không rõ nghĩa. Lần đầu tiên trong đời người con trai được nghe, được hưởng những nụ hôn cháy bóng liên tục lên má, lên môi, được hưởng vòng tay con gái xiết chặt và cả bốn chân nữa, chúng cũng xoắn xuýt lấy nhau tạo thành một “cơn bão”. Cơn bão suông của nỗi khát thèm trai gái. Ấy là chuyện của trên ba mươi năm về trước khi gặp Huệ trong mơ tôi nhớ lại tất cả. Và thấp thoáng những kỷ niệm lướt về làm tôi đê mê ngây ngất. Lúc ấy tôi tưởng tôi là chàng trai hai mươi tư tuổi. Người tôi phấn chấn hẳn lên. Tôi hỏi Huệ:
- Ðây là đâu?
Huệ cười cười:
- Ðây là nhà em.
Tôi vô thức nhắc lại:
- Nhà em?
Huệ cầm cành hoa chỉ về phía sạp nứa và cái võng bạt treo lơ lửng góc phòng:
- Ðúng, nhà em ở ngã ba N.P hồi ấy anh quên rồi sao?
Không còn làm chủ được mình tôi lao đến. Em đón tôi trong vòng tay mở rộng. Tôi ghì lấy em nhấc bổng lên quay tròn mấy vòng. Trong một vòng quay chầm chậm, thoáng nhìn qua tấm gương trên tường nhận ra thằng tôi trong đó là một ông già đang ôm cô gái trẻ, tôi thất thần gỡ người ra khỏi vòng tay Huệ và lùi ra xa mấy bước:
- Sao thế? Không phải! Nói dối!
Huệ bảo:
- Anh lạc hậu với thời cuộc quá đấy. Cái mặt đất anh đang gửi thân xác có việc gì là không xảy ra. Người đã chết rồi vẫn được coi là đang sống, đang chiến đấu ở chiến trường vì cái chết của họ chưa được đơn vị chủ quản báo tử về, do chưa xác minh được nguyên nhân. Nguyên nhân chết ở chiến trường thì bao la là kiểu: nào thì nước lũ cuốn trôi, sốt rét ác tính, gió lốc cây đổ, đá đè, rắn độc cắn… Đáng ra, người đã chết ở chiến trường thì miễn xác minh nguyên nhân . Vì họ có động mồ động mả đâu mà xông vào nơi đó để chết? Tất cả những cái chết đó phải chờ, và chờ ! Ngược lại người còn sống sờ sờ phải coi mình đã chết, đơn giản vì người ta đã trót báo tử về địa phương rằng anh đã hy sinh! Ðịa phương đã làm lễ “tấn phong” liệt sĩ cho anh rồi thì việc anh sống trở về là bất hợp pháp, làm mất thời giờ của các cơ quan công quyền ra, khó cải chính lắm, ai đứng ra cải chính bây giờ? Quyền lợi liệt sĩ của anh gia đình anh đã hưởng cả, trên mấy chục năm nay, con cái anh được ưu tiên đi học trong nước, ngoài nước, đỗ kỹ sư, bác sĩ cả rồi chẳng lẽ nhà nước đòi lại những thứ ấy? Ai đứng ra đòi chứ. Mà đòi làm sao được, của miếng chín vợ con người ta đã ăn đi rồi, con cái người ta đã học mất rồi, chẳng thể móc họng họ lấy lại được. Vả lại cũng là tiền của nhà nước, tiền bán tai nguyên, tiền đóng thuế của nhân dân cả. Một thực tại buồn của chiến tranh bới ra làm gì cho rối tung rối mù thêm. Anh bị coi là liệt sĩ rồi thì anh “liệt sĩ” luôn cho gọn chuyện!

 

 

 

                                Phần I

                             Cõi âm (9)

 

 

        Chiếc giường đệm còn thơm mùi gỗ mới cứ chập chờn khi ẩn khi hiện, lúc là sạp nứa, lúc là chiếc võng Trường Sơn mắc dây vào hai đầu cột; lúc giường tủ bàn nghế tiện nghi thời hiện đại đầy đủ, lúc là những cái bàn giát tre giát nứa làm tôi rối tung rối mù đầu óc không còn biết mình đang ở đâu, không biết mình là cái giống gì nữa trước những đồ vật dập dờn luôn thay hình đổi dạng . Rồi tôi cố chuội người khỏi vòng tay Huệ:

- Không được, tôi già thế này em trẻ thế kia. Tôi không thể!

- Huệ kéo tôi nằm xuống giường, bàn tay Huệ xoa xoa lên người tôi, giọng dịu dàng, âu yếm:

- Anh cứ tưởng tượng ra thế, anh sinh năm 1947, đúng không? Còn em sinh 1951. Ðể thật chính xác, dễ hiểu như kiểu nhớ tuổi trẻ con của các cụ ngày xưa: Anh tuổi Ðinh Hợi, em tuổi Tân Mão, anh chỉ hơn em bốn tuổi. Nếu cứ sống nơi trần gian anh sẽ còn già đi nữa, em mà sống trên đó từ năm 1971 đến giờ thì em cũng thành bà lão lâu rồi. Vô tư đi, hai ta rất chi “môn đăng hộ đối”, không việc gì anh phải mặc cảm chuyện trẻ già. Cõi trần gian anh đang sống chẳng khối ông già lấy gái trẻ đó sao? Khối ông lão sáu, bảy chục tuổi lấy cô vợ hai lăm ba mươi, sinh cùng lúc cả đôi con trai nối dõi tông đường mĩ mãn đó sao? Rồi những kẻ lắm của nhiều tiền, rực của rực tiền bỏ ra một lúc cả nghìn đô la Mỹ đi mua trinh các em gái 13, 14 tuổi để phá trinh rửa hận, “bù lỗ” cho thời hàn vi vì muốn thăng tiến bằng con đường tắt, nhắm mắt yêu, nhắm mắt lấy con nhà quan để có chỗ dựa làm bệ phóng đi lên, bị ăn phải bơ thừa, paté dở nên khi có tiền có của trong tay mới cay cú, bậy bạ đem tiền mua trinh con gái để hưởng thụ bù “lỗ” cho đỡ tiếc! Ðầu óc nông toẹt đầu bò đầu heo, tài cán không tày gang tay còn tinh tướng, hãnh diện với mớ suy nghĩ cổ lỗ, ta đây từng là con nhà nho gia giáo, có lễ nghĩa, vì ta am tường đạo Khổng!? Con gái nhà quan cạy bố mẹ có quyền chức, lắm của nhiều tiền, sẵn tiền của bố mẹ ăn chơi đú đởn, đua đòi nhảy nhót, trần truồng lắc liếc với giai từ lúc 15, 16 tuổi thì làm sao giữ được trinh tiết khi lấy chồng. Mà cái giống đàn ông nơi trần gian nhà các anh sao cứ mãi cổ hủ, chẳng chịu đổi mới “tư duy” gì cả? Lúc nào cũng bị cái màng trinh mỏng dính của con gái bó chặt lấy đầu óc thì làm sao nghĩ ra được những công to việc lớn mà phục vụ xã hội chứ…!

Lặng đi một lát vì xúc động, Huệ nói tiếp:

- Giàu có mà ngưỡng văn hoá không cao, không phát triển đồng bộ khiến bọn họ hợm hĩnh dẫn đến lệch chuẩn văn hóa chung . Mươi năm nay, hiện tượng này đã xảy ra ở một bộ phận kẻ giầu có bằng những đồng tiền bất chính. Trong tay có tiền tỷ là nghĩ ngay đến chuyện ăn chơi trác táng, cặp bồ, bao gái nhăng nhít làm băng hoại mọi thứ, từ nhà ra đường, từ nơi làm việc cho đến nhà trường. Đám trọc phú!

- Không phải thế, tôi không tin.

- Anh không tin là việc của anh, cái anh tin là đúng thì nó lại sai, cái anh cho là sai thì lại đúng, thời để anh ngây thơ qua rồi, qua lâu rồi anh tẩm ơi !

- Tôi già rồi, không còn khả năng ấy.

Huệ cười cười nháy nháy một bên mắt chế giễu tôi thêm:

- Chẳng hiểu gì về “điện”! Anh biết không? Ðàn ông các anh dù già cả, ốm o đi chăng nữa, trước khi trút hơi thở cuối cùng vẫn vãi ra đũng quần một bãi chất lầy nhầy đủ tinh trùng đuôi dài đuôi ngắn, sau nữa mới đến nước tiểu và phân, ba thứ của nợ ấy đều phải để lại nơi cõi thế tội lỗi mà ra về, vì cả Thiên đường cũng như địa ngục chẳng nơi nào có chỗ chứa ba thứ nhơ bẩn ấy, anh hiểu không…?

 

                                Phần 1

                            Cõi âm (10)

 

 

Hiện anh còn dồi dào, sung sức lắm, anh không thích vì anh đang bị cô đơn. Anh cô đơn giữa đám vợ con ích kỷ, dung tục, họ coi tiền là tất cả, họ không hiểu anh, vả lại anh cũng chẳng hiểu nổi họ. Vợ anh sau bao năm tháng đổ mồ hôi sôi nước mắt đánh vật với đồng lương như ban phát, như bố thí, phải dè sẻn trầy trật mới đủ ngày hai bữa ngon ngót dạ nên bây giờ với chị ấy, chẳng cái gì trên đời này to bằng đồng tiền, cũng chẳng tình nghĩa gì lớn bằng chiếc nhẫn vàng đủ đồng cân đồng lạng, chẳng tình cảm nào hơn được tờ 100 Đô la Mỹ. Ðám con cái nhà anh, thứ chúng cần là cần một ông bố làm quan to, một ông bố biết vơ của cải của xã hội về cho gia đình mình như những ai đó mà chúng từng nhìn thấy ngoài đời. Bất hạnh nhất cho anh là con cái anh chúng không chịu nhìn vào những tấm gương chịu khó, chịu đựng vượt lên hoàn cảnh để học tập mà vươn tới con đường thành đạt, mà chúng cứ nhìn vào góc tối các nhà quan để coi anh là một ông bố cù lần, bảo sao làm vậy, có sao ăn vậy, coi mọi người đều tốt tính như mình, không hề biết thu va hà vén cho mình, gia đình mình. Cái bi kịch ấy chẳng riêng gì gia đình anh, mà gần như phổ biến trong cõi người này! Vả lại anh muốn phấn đấu để có quyền chức cũng không thể được. Tội hủ hoá của ông cụ nhà anh có đến đời chắt anh cũng chưa tẩy rửa sạch để mà lên “đời” lý lịch! Cõi trần gian trầm luân bể khổ thế đấy anh hiểu không? Chúng nó coi anh là một ông bố ngu, không thức thời, không biết cách luồn lách làm quan để mà tham ô tham nhũng! Các ông bố bà mẹ nhà khác người ta tranh thủ khi làm quan để kiếm đất, kiếm biệt thự, kiếm ôtô, kiếm nhiều đô la cho con cái họ tiêu sài thoải mái, nhảy nhót, lắc liếc đàng điếm nơi quán xá thoải mái… Anh bị cô đơn nơi trần thế, cô đơn giữa những người thân yêu. Ðau nhất đời anh là đám con cái anh chúng đều có học thức nhưng chúng đối xử với anh như kẻ vô học. Ðã có lần thấy chúng cãi láo, do vợ anh kể công đẻ ra chúng nó, một đứa chả nói vỗ vào mặt vợ chồng anh rằng: “Hai ông bà sướng với nhau thì sinh ra chúng tôi chứ đâu phải ông bà chủ trương đẻ ra chúng tôi? Nếu chủ trương đẻ chúng tôi ra thì ông bà phải chuẩn bị cho mỗi đứa một cái nhà ba tầng trước đã! Ông bà phải biết rằng: “sinh ra con người là sinh ra một nỗi khổ!”. Chúng tôi là những nỗi khổ do các ông các bà tạo ra bừa bãi trên đời này, làm chật chội cả trái đất này(!?).

Anh rộng rãi với đời nhưng người đời đâu có rộng lòng với anh. Cuộc đời là cái chăn hẹp trên cái giường đã chật hẹp lại quá đông người chen chúc, không biết co nên anh bị thiếu chăn đắp, bị túng bấn nghèo thiếu cả đời. Không phải em nói để mê hoặc anh, để đoạt lấy anh đâu, muốn chiếm được anh em đã chiếm từ lâu, từ khi ở chiến trường. Là người của cõi tiên, em chỉ cần lái họng súng của một lính Mỹ về phía ngực anh là ta được ở cùng nhau ngay. Em về trời lúc tuổi còn rất trẻ. Suốt thời gian anh ở chiến trường em đã đi theo để bảo vệ anh. Sau cái đêm thấy anh bị bất lực ấy, em thương anh lắm. Không những thương anh, thương cho cả một thế hệ trai tráng khoẻ mạnh phải xa nhà, xa bố, xa mẹ; người có vợ phải xa vợ, xa con, vác súng đi về phía mặt trận, đêm đêm hành quân leo đèo lội suối giữa bom gầm đạn xé, giữa toạ độ bom B52 sập núi đổ rừng như đang đi giữa những trận động đất kinh hoàng. Con người lúc nào cũng phải gồng mình chống đỡ với sự chết chóc, gì mà “cái khoản” kia của các anh chả bất lực, chả quẹo quèo queo lại. Ðịnh sau chiến tranh trở về ta sẽ tìm lại nhau, lấy nhau để đắp bù cho nhau. Mơ ước ấy ấp ủ trong em chỉ được vài tháng đã tan biến vào rừng rậm Trường Sơn. Nay có được nhau rồi, anh ơi, đừng để mất nhau anh nhé. Ôi, hơn ba mươi năm em đợi chờ nẫu nà gan ruột anh có biết không?                                 

 

                               Phần 1

                            Cõi âm (11)

 

Tôi gỡ người khỏi vòng tay của Huệ và ngồi nhỏm dậy định ra bàn ngồi, lại bị em kéo nằm xuống:

- Ði anh, lên cõi tiên cùng em nhé!

Tôi trả lời:

- Thông cảm cho anh, còn nhiều việc anh phải làm, đó là nhiệm vụ của mỗi con người được sinh ra trên cõi đời này.

Hai tay Huệ ôm đầu tôi ghì chặt vào ngực khiến tôi ngột ngạt giữa bầu ngực nóng hừng hực của Huệ. Tôi phải dướn cổ ngúc ngắc đầu cố chuội ra, lại bị Huệ túm hai tai giữ chặt, trán ghì vào trán, mắt soi vào mắt, môi dính vào môi:

- Em bảo thực, đi cùng em lên cõi tiên anh sẽ được sung sướng, cõi trần gian là cõi khổ, là bãi chiến trường, là thương trường để đầy đoạ ức hiếp lẫn nhau, ức hiếp những kiếp người thấp cổ bé họng, em nguyền rủa hai mươi năm sống dưới đó, vì em đã nhầm khi đứng trên mây nhìn xuống trần gian, ngắm những đôi trai gái nắm tay đi bên nhau, tình tứ với nhau dưới bóng trăng, giữa vườn hoa, hay dưới rặng phi lao trên những cánh đồng lúa xanh, hoặc trên con đê cong cong lượn theo những dòng sông ăm ắp phù sa bồi đắp đôi bờ ngô, khoai mươn mướt. Những cặp vợ chồng hạnh phúc, êm ấm trong những ngôi nhà ngói, nhà tranh tuy đơn sơ dưới hàng cau cùng những thiên thần bé nhỏ của họ; em từng cho đó mới là cõi tiên. Cõi tiên trên trời đến lắm lệ luật gò bó, trói buộc, đến ông trời có đủ quyền năng trong tay nhiều lúc còn bức xúc than thở: “Nhiêu khê quá, gò bó quá, miếng ăn của ta cũng bị kiểm tra, giấc ngủ của ta cũng người đứng gác trên đầu, kẻ đứng gác dưới chân, việc làm không theo điều ta nghĩ, nhất cử nhất động là bàn, là hội ý, là họp, là tập thể ra quyết định. Ta có còn là ta nữa không? Ta có còn là ông trời của các người nữa không? Hãy để cho ta được tự do thở khí trời, được uống nước sông một tuần vài giờ được không” ?

Ðể thoả mãn mong ước được sống nơi trần gian em đã quậy phá cõi tiên làm Thánh Mẫu phiền lòng, Thánh Mẫu giận. Khuyên can nhiều lần em vẫn bướng bỉnh không nghe chỉ thích “chui vào lòng con thú dữ”. Thánh Mẫu đành để em xuống trần hai mươi năm. Xuống trần gian ở, em mới nhận ra, nó chẳng tốt đẹp như khi đứng trên mây ngó xuống xem. Chính chị Giáng Hương đã nhầm, tưởng hoa mẫu đơn nơi trần gian ai thích là có thể hái được nên mới bị bắt, bị trói, bị bắt đền. Nhờ có nho sĩ Từ Thức cứu mới thoát, để phải mang ơn Từ Thức, phải lấy Từ Thức để trả ơn, vì thế Từ Thức mới được lên ở cõi tiên. Ở cõi tiên một thời gian thấy chán bèn xin về lại cõi trần lúc ấy mới hiểu ra rằng thời gian Từ Thức ở cõi tiên, thì trần gian đã vật đổi sao dời. Con người không thể sống ở cả hai cõi khác nhau cùng lúc, một đời người...

Ngắt lời Huệ, tôi đáp:

- Không, anh không thể, anh còn vài món nợ chưa trả xong....

Bị Huệ nói át đi:

- Ðàn ông các anh đến là lắm thứ nợ nần. Hết nợ vợ nợ con, nặng nợ với dòng họ, nặng nợ với đời, nặng nợ vì sự nghiệp, cả nặng lòng với những mối tình xưa cũ! Ôi, những cái nặng nợ của đàn ông thật mênh mông vô bờ bến. Chính vì đàn ông các anh không dám băng mình vượt qua những thứ nặng nợ ấy nên các anh mới mất tự do. Mất tự do nên các anh không lớn lên nổi. Thôi được, anh không thích cũng chẳng sao, em không nài nỉ nữa, tình yêu mà van xin nài nỉ có được cũng chẳng ra gì. Anh lưu lại vài ngày đi du lịch cõi âm cùng em. Em dẫn đi xem cuộc sống cõi Âm cho anh ngộ ra. Chúa Giê-Su quả không sai khi nhận xét về con người: “Nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy, vì tính chai lì, có đôi tai mà vẫn nghễnh ngãng nên con người mới khổ”(3). Nào ta đi, ở đây có cả một “đại dương” những chuyện buồn cười, buồn đau, buồn rũ rượi vì buồn do con người đem từ cõi trần gian ma lanh, ma quái, ma bùn xuống đây cả.

Huệ nắm tay tôi đi ra cửa khác, không phải lối khi xuống,

lối xuống lúc đầu đã khép lại kín bưng sau lưng.

----------------------------

(3): Kinh Tân Ước.

 

 

                               Phần 1

                            Cõi âm (12)

 

 

Tôi muốn giằng tay ra từ chối mà không được. Có lúc cảm thấy như Huệ có thực, lúc không là thực, cái nhà của Huệ lúc thực, lúc không thực, ảo hình trước mắt tôi. Từ ánh mắt cho đến những cử chỉ nho nhỏ của Huệ dường như đều dành cho tôi sự âu yếm chân tình. Tay trong tay chúng tôi dắt nhau đi giữa cánh đồng vắng lặng, tịnh không một bóng người, bóng súc vật cũng không, cả cánh chim trời cũng không nốt. Có lẽ lúc ấy ở đấy, khi chúng tôi đi qua là giờ nghỉ của muôn loài. Chắc thế!

Tôi bèn hỏi Huệ:

- Những người khác trong gia đình em đâu, con gái như em không nên ở một mình?

Huệ bật cười vì câu hỏi ngô nghê ấy của tôi. Em giơ tay đấm trượt vào lưng tôi một cái - kiểu đấm yêu:

- Anh Phong hay thật, vui tính thậ đấy. Em nhắc lại: Em không phải người của cõi này, em xuống chơi thôi. Anh muốn cả nhà em xuống ở dưới này cho đông đủ ư? Hỏi Diêm vương, Hà Bá có nghe được không? Anh thật là! Như vậy thì sự công bằng ở đâu, hỏi anh thế? Dòng họ nhà bố mẹ em nơi trần gian đã đóng góp năm nhân mạng cho hai cuộc chiến 46 -75 (1946 -1975) rồi đấy. Kể cả em là bốn cho miền Bắc, hai cho chính quyền VNCH. Sáu cái chết cho ba mươi năm chiến tranh là ít hả anh? Ðầu tiên là chị Thu con bác Kiệm em, một nữ du kích xã...

Tuần tự em kể cho anh nghe nhé!

- Giặc Pháp từ nội thành Hà Nội đưa quân nống ra chiếm đất để mở rộng vùng tề. Tờ mờ sáng, được việt gian dẫn đi tắt qua cánh đồng áp sát vây chặt quanh làng. Người già, em nhỏ đã  tản cư từ đầu kháng chiến, mỗi gia đình chỉ một hoặc hai người ở lại trong đội du kích xã để giữ đất, giữ làng và tăng gia sản xuất lấy lương thực nuôi sống gia đình và đóng thuế cho chính phủ kháng chiến. Ðịch đột nhập vào ém quân xung quanh làng mà các vọng gác của du kích không phát hiện được. Du kích là những người lính không chuyên nghiệp, không mấy hiểu biết về chiến, kỹ thuật đánh nhau. Vũ khí lại rất thô sơ nên việc canh gác có phần lơ là, chủ quan. Chủ quan nghĩ rằng lính Tây là lính công tử bột không đi càn quét về đêm, vì chúng là giống mũi lõ, mắt xanh, bị quáng gà không biết đánh nhau về đêm! Cách hiểu của những người du kích hồi ấy hẹp như luỹ tre làng vốn đã hẹp vậy!

Như mọi ngày, trời mới tờ mờ nhìn chưa rõ mặt người, chị Thu dậy gánh mạ ra đồng đi cấy sớm. Vừa ra đến cổng thì chị trông thấy ở các bờ tre, bụi chuối hai bên đường làng lấp ló có người mặc áo tơi lá, đầu đội nón, chân đi giày săng đá đứng như bù nhìn rơm canh chim ở ruộng ngô mới gieo hạt. Chị nghĩ ngay đến lính giặc  đóng giả đang vây làng. Quăng gánh mạ xuống đường đi giật lùi trở lại nhà để lấy súng. Vừa về tới sân thì một họng súng lạnh tanh gí vào sau lưng, chị đành đứng im. Như thằng câm, thằng Tây cầm vai chị xoay ngược mặt chị vào mặt nó, rồi chỉ vào người nó ba lần, chỉ sang người chị ba lần. Chị hiểu thằng Tây muốn gì. Ở thế bí, tay không tấc sắt, chị cũng lẳng lặng không nói không rằng xem theo nó. Thằng Tây câm lôi tay chị vào bếp. Bếp không cánh cửa. Cánh cửa bếp, cánh cửa nhà của mọi gia đình trong làng đều tháo xuống đem cất giấu (tiêu thổ) từ ngày đầu kháng chiến, để nhà không vườn chống chờ giặc tới thì đánh. Lúc gánh mạ đi cấy chị che tạm cái nong cho gà khỏi vào bới bếp. Cái nong hình tròn chỉ che được phần dưới cửa bếp. Nhà trên, mái hiên dọc hè che kín những tấm giại bằng làm tre chắn nắng, các cửa bên trong đều che mành mành kín. Thằng Tây tưởng trong nhà có người nên lặng thinh “bí mật” kéo chị vào bếp.

 

                                              

                               Phần 1

                            Cõi âm (13)

 

 

Tuy là giặc, nhưng thằng giặc Tây này có vẻ “lịch sự” hơn đám lính nguỵ, phông “văn hoá” cao hơn đám lính nguỵ về phương diện liêm sỉ! Bọn lính ngụy, bọn vô liêm sỉ ấy đi càn, lùng sục trong nhà ngoài sân để tìm Việt Minh. Việt Minh không tìm thấy, bắt được đôi vợ chồng người dân không chạy kịp đang ẩn trong đống rơm liền bảo nhau dằn vợ người ta ra thay nhau hãm hiếp tập thể. Còn đang tâm bắt anh chồng đứng xem, chứng kiến để người chồng ấy suốt đời bị ám ảnh, bị cảm thấy nhục về chuyện đó. Mà anh chồng kia thuộc đồ

hèn, giặc làm nhục vợ trước mặt mà không xung vào du kích, hoặc đi bộ đội để trả thù cho nỗi nhục của vợ, của mình. Một kẻ dát chết, suốt ngày quanh quẩn xó nhà núp váy vợ để thi thoảng nghĩ đến chuyện đó lại lôi vợ ra đánh đập, hành hạ. Vô cớ bị đánh nhiều lần không có lý do, chị vợ nổi xung lên phản ứng, cãi lại:

- Tôi mắc tội gì mà cứ đánh tôi?

Anh chồng hậm hực:

- Mày bảo mày không mắc tội à?

- Tội gì?

- Tội bọn lính dõng hôm nọ hiếp mày.

- Giặc nó hiếp tôi, có mặt anh đứng đó anh chẳng làm gì được nữa là tôi đàn bà tay yếu chân mềm?

- Tao không đánh mày tội bị nó hiếp.

- Anh đánh tôi về tội gì?

- Tội mày sướng với nó!

- Tôi sướng với nó bao giờ?

- Mày không sướng với nó sao hôm ấy ông thấy mày cứ dướn cái mông lên?!

Nghe thế, người vợ phì cưởi, và nói:

- Vì dưới rơm có viên gạch vỡ, nhọn kinh lên được, nó đâm vào mông người ta, nỡm ạ! Ghen không biết đường mà ghen!

 

Thằng Tây “câm” đá cái nong lật ngửa ra trước ba ông đầu rau, hai ông một bà ngồi chồm chỗm, châu đầu vào nhau giữa đống tro như đang hội ý tổ ba người. Vì giấu đồng bọn đi ăn mảnh nên thằng Tây im thít như bị câm vật chị ra cái nong  hung bạo túm hai ống quần để tụt. Do quần thắt dải rút chặt, thằng Tây loay hoay mãi không biết cách cởi. Cơn dâm cuồng sôi sùng sục hắn vội vàng ghé răng cắn gấu quần để xé. Cái quần thâm đất dày dặn bền chắc của người nông dân chuyên mặc lúc đi làm đồng, răng Tây cũng bất lực. Thằng khốn đó bèn với lấy con dao găm trong bao xe đựng đạn luồn từ cạp quần rạch một đường xuống tận gấu. Trông thấy cặp đùi trắng nõ nà của chị nó nuốt nước bọt đánh ực, cuống cuồng đè sấn chị ra cái nong, lôi cái của “bố” nó ra ấn vào háng chị lắt lấy lắt để như chó lắt liên hồi. Chị phải hai tay đẩy ngực nó, chân giẫy giụa, mông lắc qua lắc lại để tránh. Hai tay thằng Tây đè chặt hai tay chị xuống đất giữ không để chị giẫy giụa. Ðang lúc nguy khốn chị nhớ ra cái dùi sắt có đầu nhọn thường dùng làm que cời lừa, cởi gio bếp khi đun rạ, rơm, và để xâu nướng ngô bắp, và khi cần thường dùng làm dùi, dùi lỗ buộc lạt trong đan lát rổ rá của đàn ông. Vật dụng đó thường có bên ba ông đầu rau. Nghĩ thế, chị vờ ngoan ngoãn như bằng lòng cho nó.Chị nằm im như cam chịu.

Thằng khốn Méc xi (Merci) một tiếng rồi buông hai tay chị ra luồn xuống phía dưới rờ rờ tìm điểm “bắn”!

Chị chộp chộp tay vào đống gio để tìm: “Ðây rồi ” - chị reo lên trong đầu.

Có được chiếc que cời trong tay, chị bình tĩnh dồn hết sức vào hai cánh tay thọc mạnh mũi dùi nhọn vào yết hầu, xuyến thấu gáy thằng Tây chó chết đó. Bị cái que cời lửa đâm bất ngờ, hắn dựng bật người dậy ôm lấy cổ chạy ra sân kêu ò ò ò ò… như bò rống. Vùng nhanh dậy, chị chộp lấy cây súng tiểu liên Siten (Stenger) của nó dựng ở vách bếp xiết cò lia theo cả băng đạn.

Cách đấy ba tháng, đội du kích của chị Thu trong một trận chống càn đã tiêu diệt một số lính Âu - Phi, thu nhiều chiến lợi phẩm có loại súng này. Trước khi nộp cho huyện Ðội, đội du kích của làng đã kịp tập thao tác, tháo lắp, bắn thử nên hôm nay có loại súng này trong tay chị Thu sử dụng thành thạo ngay, tên khốn chết lăn quay tại sân!

 

                                             

                                Phần 1

                             Cõi âm (14)

 

Chỉ một nhát xuyên của chiếc que cời trúng yết hầu, thằng khốn đó đã đủ “đi đời nhà ma rồi”, lại thêm cả băng đạn tiểu liên bắn găm ở cự li gần nữa, gì hắn chẳng hết ngáp. Vơ lấy chuỗi dây xanh tuya rông cài những băng đạn, lựu đạn của hắn mà lúc lôi chị vào bếp hắn cởi ra để cạnh, quàng vào bụng mình định mắc khóa để đeo. Vì vòng bụng của chị nhỏ nên thắt dây xanh tuya thắt vào lỏng toét. Đã thế cái dây nặng những bao đạn, lựu đạn trĩu xuống kéo chuội qua mông. Chị bèn khoác vội cả chùm dây đạn lên vai, lấy băng đạn mới thay vào súng lao nhanh ra chiếm lấy bể nước, dùng bế nước làm bệ tì, vật chắn chĩa súng ra phía ngõ chờ giặc tới.

Bọn giặc ém quân quanh làng thấy súng nổ, tưởng Việt Minh tấn công. Từ các vị trí thằng nào thằng ấy nằm soài ra đất bắn loạn xạ, khắp làng ầm ầm tiếng súng, tiếng đạn bay chiu chíu, những thân cau cao lưng trời trúng đạn đổ gục cùng tiếng chó sủa náo loạn. Lửa bùng cháy từ những ngôi nhà mái rạ, tre nứa nổ bộm bốp, khói bay mù mịt.

Một lúc không thấy Việt Minh bắn trả, bọn Tây chỉ trỏ bảo nhau tấn công về phía chị. Ba thằng Tây lò dò thằng trước, thằng sau theo đội hình dích dắc tiến vào ngõ. Chị bình tĩnh xiết cò một điểm xạ, loạt đạn găm vào trán thằng đi đầu. Thằng giặc chỉ kịp một lần rướn người lên trước khi bật ngửa đổ vật ra đất, hai chân còn giật giật mấy cái trước khi nằm im. Hai thằng đi sau vội lăn sõng soài ra đất la lớn:

- Viêt Minh... Viêt Minh… rất nhiều Việt Minh!

Lũ giặc quây đến rất đông, bắn tới tấp về phía chị. Nấp sau bể nước chị bắn trả từng loạt. Hết băng đạn thứ hai, thay băng đạn thứ ba xong, lợi dụng bể nước che khuất lúc bọn giặc chưa nắm được lực lượng bên trong nhiều hay ít, chị khom người chạy vào bếp kéo xê tấm đan trát đất nơi để ba ông đầu rau, bên dưới là một ngách hầm để súng và lựu đạn của chị. Chị lấy thêm ba quả lựu đạn, khẩu súng trường khoác chéo lưng. Có thêm vũ khí, chị nhanh chóng vượt rào sang hàng xóm tìm về chiến hào bố phòng cùng đồng đội. Ló ra ngõ nào cũng thấy giặc nhốn nháo chân chạy, miêng hô:

- A la xô… Hô lê manh… A la xô… Hô lê manh…

Biết không thể về vị trí phòng ngự được, chị cắt đường luồn từ vườn nhà nọ sang vườn nhà kia tìm đường lên bờ đê định chiếm điểm cao vừa đánh, vừa rút ra bờ sông để, nếu được thì bơi sang sông. Vì bên kia sông là vùng tự do. Tới chân đê,  nhìn lên mặt đê đã đầy lính giặc thằng nào thằng nấy đang nằm sõng soài tay lăm lăm xả súng bắn vào làng. Khắp làng nhà cháy, lửa khói mù mịt, tàn tro bay đen trời, tiếng tre nứa nổ lụp bụp lẫn trong tiếng súng liên hồi, loạn xạ. Chị quay lại làng, luồn lách giữa những bờ rào, rặng tre. Hai mảnh quần bị thằng Tây xé rách loà xoà bay, hết vương gai lại mắc cành rào làm nhiều lần vấp ngã. Chị vội cởi phăng, vứt đi cho đỡ vướng. Còn lại cái quần lót, chị vẫn xông pha, xuất hiện ở ngõ này bắn diệt vài thằng, luồn sang ngõ khác ném quả lựu đạn, cho đến khi hết đạn, hết lựu đạn chị mới chịu cắt đường tắt về vườn nhà mình lội xuống ao lặng lẽ bơi về hầm bí mật. Vừa bơi được một đoạn thì bọn địch phát hiện ra chị. Một thằng bắn, hai thằng bắn, hàng chục họng súng chĩa xuống ao bắn tới tấp, đạn bốn phía bay chéo mặt ao. Trước khi hy sinh, chị còn nhào lên đứng dựng trên mặt nước như thể từ biệt xóm làng lần cuối. Những con cá bị váng óc vì sức ép súng đạn cũng nhao nhao, lao lên lao xuống lao xao đầy mặt ao như tiễn biệt người con gái dũng cảm của quê hương.

Bọn chỉ huy sai lũ Việt gian vớt xác chị lên cho chúng xem mặt con Việt Minh “ác chiến” rồi chúng lôi xềnh xệch lên mặt đê cho lũ Lê Dương khát máu giương lê đâm nát thi thể chị để trả thù. Chúng còn trói cái xác nát bét của chị vào cột bêu trên mặt đê để làm gương cho người làng và du kích thấy mà sợ, hòng họ nhụt ý chí đánh Tây!? Cái ý nghĩ nông cạn, thiển cận của bọn tay sai và lũ thực dân là do chúng không hiểu mình và cũng chẳng hiểu người. Gieo chết chóc xuống xóm làng người ta lại bắt người ta nhụt chí căm thù, nhụt chí chống trả? Ôi, những cái đầu mê lú vì bơ, sữa, bánh Tây!”.

Huệ vừa kể vừa bình luận.

 

                                   

                               Phần 1

                            Cõi âm (15)

 

 

Kể đến đây Huệ lặng đi, hai khoé mắt nhoè ướt, giọng trùng xuống:

- Có phụ nữ nước nào khổ như phụ nữ xứ này không: Chờ chồng nuôi con, thờ chồng nuôi con, thờ chồng thờ con…?

Nếu không chiến tranh họ đâu phải vây?

 

Đưa ra những câu hỏi trên xong, lắng đi một lát, Huệ kể tiếp:

“Người thứ hai tan xác bởi quả bom phát quang trên một điểm chốt, tay một nơi, chân một nẻo, nguyên bộ ruột vắt lòng thòng trên ngọn cây cổ thụ còn sót lại nơi sườn đồi, sau đó “được chôn” vào bụng lũ quạ đen. Riêng cái đầu, vị thế ăn trên ngồi trốc được ưu trên tung lên rõ cao rồi mới rơi, lăn lộc cộc xuống sườn núi một quãng xa vướng vào một gốc cây giắt lại trong khoang rễ trồi trên mặt đất. Ðàn lợn bản gần đó, chủ đi sơ tán lâu ngày, bị bỏ đói đang lang thang kiếm ăn. Con lợn mẹ đi đầu bắt gặp, cho đó là miếng mồi ngon liền khịt khịt mũi thăm dò, thấy là thứ ăn được, liền ngoạm cái tai vừa kéo lê vừa rứt, gặm, hai chiếc răng nanh nhọn hoắt uốn hình móc câu vếch ra hai bên mép vô tình thọc vào hốc mắt làm con ngươi mắt trong hộp sọ vọt ra, chú lợn con đi cạnh tớp được trệu trạo nuốt chửng không kịp gì nhai. Cả đàn lợn con sấn đến xúm xít tranh với lợn mẹ: con gặm má, con rứt tóc, con nhay tai giằng đi giằng lại, dãi nhớt bê bết quện với đất đồi đỏ quạch nhầy nhụa. Ðàn chó trong bản đánh hơi thấy cũng kéo nhau đến tranh phần. Ðàn lợn yếu thế đành phải nhường bộ. Bầu đoàn thê tử nhà lợn kéo nhau lên rẫy sắn, nương ngô thây cha lũ chó má tranh nhau cái thủ người dai nhách, khó nhằn. Cái món thịt sống, nhất lại thịt người, khi đói, gặp, buồn mồm thì nhá chơi chứ không phải món khoái khẩu của mẹ con nhà lợn.

Lũ chó tranh nhau gặm hết cái thủ người xong, dường như miệng con nào con ấy còn thòm thèm, con đầu đàn ngẩng lên phía đồi chốt sủa oang oang một hồi rồi dẫn cả đàn thừa thắng xông lên đỉnh chốt, nơi có nhiều xác tử sĩ của cả hai bên trận chiến còn nằm đâu đó mà hai bên chưa thể lấy về chôn cất sau những ngày đêm nện nhau chí tử, vì cả hai bên đang phải co về căn cứ củng cố lại lực lượng của mình cho những trận đánh sau.

Chiến trường thường có những khoảng lặng chờ đợi, những khoảng lặng chờ đợi cho một trận đánh gây một sự im lặng đến rợn người. Lũ súc vật, thú hoang thường đi kiếm mồi vào những lúc ắng tiếng súng tiếng bom như vậy.

Người thứ ba chết tuy được toàn thây nhưng tròn trịa một khúc bi hài. Anh này người gầy yếu, lúc khám tuyển quân anh chỉ nặng 45kg. Sức khoẻ xếp loại B1. Hết A1, A2, A3 người ta dùng đến người sức khoẻ B1. Cái chết của anh thứ ba, một cái chết hy hữu; không công đồn, chưa phá vây, chẳng bom rơi đạn lạc chạm vào người. Ðang trên đường cùng đơn vị hành quân vào chiến trường. Ngang đường bị sốt rét anh vẫn hạ quyết tâm ra trận. Sốt rét ở rừng nhiệt đới là chuyện cơm bữa, chả sao đâu. Mười người ở rừng thì bảy tám người mắc chứng sốt rét. Cái bệnh sốt rét cứ như anh giả vờ. Ðang khoẻ mạnh, ăn như thuồng luồng, rắn giáo bỗng đùng đùng nổi cơn sốt, người run cầm cập, đắp cả đống chăn lên người vẫn rét run môi, hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập. Ðếm ấy đang hành quân, anh thấy người ớn lạnh, lấy hộp cao sao vàng (dầu gió) ra quệt xoa mũi, xoa hai bên thái dương, trán, cổ và gáy. Nghĩ xoa dầu thế sẽ ấm người trở lại mà hành quân. Nhưng người anh cứ mỗi lúc một rét căm căm, rét từ trong gan trong ruột rét ra, hai hàm răng đánh vào nhau cầng cậc, môi trên môi dưới liên tục bư bư đánh đàn, người chùng xuống bủn rủn, đầu gối, cổ chân, hai kheo chân bải hoải nhũn ra không muốn bước, lại bị cái ba lô đầy ự quân trang, rồi khẩu súng AK, cộng 200 viên đạn, thêm bao tượng 6 kg gạo vắt vai cứ mỗi bước lại như có người chất thêm vật nặng đè anh xuống. Ðang bước trong hàng quân rầm rập giữa ngút ngàn “Trường Sơn ta đi không một dấu chân người”(4) thì anh bỗng lăn quay ra ngất đi. Chỉ huy tiểu đội báo cáo lên chỉ huy trung đội, chỉ huy trung đội báo cáo lên chỉ huy đại đội. Chỉ huy đại đôi nghi chiến sĩ này sợ gian khổ, sợ chết nên giả vờ ra thế, đóng kịch để tìm cách “B quay” về miền Bắc trốn tránh nhiệm vụ đánh giặc. Chính trị viên trưởng đại đội hạ một câu sắc lạnh:

- Khiêng!

Câu hạ lệnh gọn lỏn ấy được truyền ngay xuống tiểu đội có người “giả vờ ốm”. Tiểu đội trưởng hội ý chớp nhoáng với hai tiểu đội phó, rồi cả tiểu đội dừng lại tạt vào cạnh rừng dỡ, san ba lô, súng đạn, lương thực của ba người cho toàn tiểu đội mang vác để có hai người khênh võng chiến sĩ ốm hành quân theo cùng đơn vị.

Nằm trên võng do đồng đội khiêng đi một lúc, đỡ sốt, thấy mình khỏe lại. Nhận thấy việc đồng đội khiêng mình hành quân ra chiến trường. Không đành lòng để đồng đội vất vả vì mình, anh bảo họ dừng lại rồi tụt khỏi võng tự đi và lấy chiếc võng quấn quanh người cho ấm, nhưng cũng chỉ đi cố được một chặng ngắn, người anh lại bủn rủn ra, hai đầu gối rời rã chùng xuống không còn muốn bước. Biết không thể cố đi được nữa, và cũng không muốn để đồng đội đang trên đường ra trận phải khổ vì mình, anh nói với tiểu đội trưởng:

--------------------------------------

(4): Thơ Gia Dũng.

                                      

                             Phần 1

                        Cõi âm (16)

 

- Các đồng chí cứ đi đi, tôi đi đại tiện một lát, xong tôi sẽ đuồi theo sau, tôi khoẻ rồi.

Người tiểu đội trưởng tưởng anh đã khỏi sốt tiếp tục hành quân được, nên đồng ý và dặn dò:

- Xong việc đồng chí bám theo anh em nhé, tư trang của đồng chí, tiểu đội san ra mang cả rồi, đồng chí còn yếu cứ đi người không cốt sao theo cho kịp đội hình đơn vị.

Nói vậy cho đồng đội an tâm, thực ra anh đã kiệt sức. anh chui sâu vào rừng tìm một bụi rậm giở võng ra mắc vào hai thân cây leo lên nằm, nghĩ cho qua cơn sốt rồi sẽ đuổi theo đơn vị sau. Anh thỉu đi mê mệt bởi một cơn sốt rét ác tính, rồi chết trên võng sau đó vài ngày. Ðơn vị lúc đến bãi nghỉ, điểm danh không thấy anh, đồ rằng anh tụt lại để đảo ngũ, B quay về Bắc. Ðó là chuyện thường tình của những đoàn quân trên đường ra trận, giữa đường hao hụt một vài người là chuyện nhỏ đối với một đại đội hơn trăm con người vượt hàng nghìn cây số giữa bạt ngàn Trường Sơn ngày ấy. Làm sao vào đến chiến trường còn 80% quân số đã là đạt yêu cầu.

Anh này số đen. Ðại đội anh sau đó ba ngày bị trúng toạ độ B52 gần như bị xóa sổ hoàn toàn cả đơn vị. Ðại đội đi sau hành quân đến khắc phục hậu quả, khi thu dọn thi thể tử sĩ họ nhặt được cuốn sổ ghi danh sách quân số của văn thư đại đội, họ thấy tên anh ghi trong trong sổ: “đã B quay giữa đường cách đó ba ngày”. Tiểu đoàn căn cứ vào đó thông báo về địa phương rằng anh đảo ngũ. Gia đình anh khổ nhục, mang tiếng với làng nước vì con đi đánh giặc, sợ gian khổ, sợ giặc mà đảo ngũ, B quay, tuột xích về hậu phương một cách hèn nhát.

Lúc anh mắc võng , hai cây mới to bằng bắp đùi, ngọn còn thấp tè. Ba năm sau một đoàn đi tiền trạm của một đơn vị khác qua đây ghé vào khu rừng đó nghỉ. Viên đại đội phó nằm trên võng nhìn lên thấy cái võng bạt treo lơ lửng trên lưng chừng hai cây cao giữa một bụi rậm rạp, giữa võng mọc một đám cây “tầm gửi”. Thấy lạ, viên đại đội phó leo lên ngó vào thấy bộ xương người trong võng. Viên đại đội phó cùng mấy chiến sĩ đi cùng tháo hai đầu dây hạ xuống, dùng chính chiếc võng gói ghém, khâm liệm bộ xương lại rồi đào hố chôn dưới hai gốc cây đó, đắp nấm cẩn thận. Chắc giờ đã bị mưa bào gió gọt bằng địa giữa rừng, cũng có thể đã được bốc về một nghĩa trang nào đó với tấm bia chiến sĩ vô danh.

Người hy sinh thứ tư: là em đây. Sau khi anh về đơn vị rồi em vẫn ở K9 tiếp nhận thêm quân lương để bảo quản, dự trữ chuẩn bị cho chiến dịch G. Anh trạm trưởng trước trên đường lên mặt trận nhận lệnh bị bom trên đường đi, bị thương phải về tuyến sau điều trị. Cấp trên điều trạm trưởng mới về thay. Nét vô văn hoá bung ra từ tiếng cười hố hố một tràng bởi cái miếng rộng toé loe của đôi môi thâm thì, thêm sự đóng góp của đôi mắt trố thô lố một cách thô bỉ. Hễ gần chị em là hau háu nhìn vào nơi ngực, nơi đũng quần. Hắn nhìn thế để làm gì nhỉ, trong óc hắn tưởng tượng ra thứ gì của chị em giấu trong đó không biết nữa? Hình như trong ý nghĩ bệnh hoạn của hắn, đàn bà con gái chỉ hai nơi ấy là đáng nhìn nhất, ngoài ra không còn nơi nào cho hắn quan tâm thêm nữa. Da mặt hắn bì bì, lỗ chân lông hông hổng chen những mụn trứng cá lô mô đen như đầu ruồi, hai chiếc răng bàn cuốc hàm trên ám khói thuốc lào trông cáu bẩn như hai hàm răng trâu, hơi tí vui là phô ra khoe tới bời khói lửa cả bộ “xia” sau tràng cười hô hố, cứ như chị em mê bộ răng vừa vổ vừa gỉ ngoèn khói thuốc lào của hắn lắm.

Hắn chiều em, nịnh em, một kiểu nịnh đầm thô thiển vô duyên không thể chấp nhận đối với một cô gái nhiều mơ mộng, cá tính mạnh như em. Hắn chẳng bao giờ phân công em đi công tác xa, những lúc cần kíp cũng không bắt em ra mặt đường san đất, chặt cây, lấp hố bom để thông đường cho các đoàn xe ra trận. Ðể lấy lòng em, lúc nào hắn cũng tìm lý do để em ở nhà làm những công việc nhẹ nhàng gần hầm, gần hang đá vững chắc ít nguy hiểm cùng với hắn, làm các chị em khác phát ghen đi đến dè bỉu kỳ thị nói kháy nói bẩy em này nọ. Một lần chỉ có em và hắn ở nhà, hắn vồ lấy em. Em càng đẩy hắn ra hắn càng ôm chặt. Mùi thuốc lào hôi rình phả vào mặt em kèm những câu nói nghe ma quái như từ cõi âm vọng lại: “Anh đây… thủ trưởng đây. Huệ… Huệ…! Chiều anh… chiều thủ trưởng một cái đi, rồi thủ trưởng cho về Bắc nghỉ phép… (bộ đội thời chiến tranh không có chế độ nghỉ phép), cho ở công tác hẳn ngoài Bắc luôn không phải đi chiến trường nữa, rồi anh cũng về ngoài đó ta sẽ cưới nhau... cưới nhau… eee… em… nheee…é!”. Một gã đại đội trưởng tép riu mà cũng khoe ra đến là lắm thứ quyền lực để gạ gẫm con gái. Chỉ người con gái nhẹ dạ cả tin, ham sống sợ chết mới ngu ngơ nghe lời gã. Em vội giằng, đẩy hắn ra và cho hắn một cái tát, rồi em vồ lấy khẩu súng lên đạn chĩa vào ngực hắn định bóp cò. Song em lại thôi, vứt súng chạy ra rừng ngồi khóc. Từ đó hắn hết chiều em luôn, bắt em làm đủ mọi công việc nặng nhọc, sau đó hắn phân công em theo đoàn chiến sĩ mới vào bổ sung, lên tuyến trước mở đường chuẩn bị cho chiến dịch mùa khô tới. Thánh Mẫu thấy em khổ quá đã đón về trời sau trận bom chà đi xát lại ngay đêm đầu tiên đến cung đường mới cùng một số chị em khác…

                                                  

 

                                Phần 1

                            Cõi âm (17)

 

Hai người chết phía bên kia trận tuyến là hai ông chú họ em. Một là học sinh tú tài phần 2 trong nội thành Hà Nội, bị cảnh binh vào tận trường bắt lính đưa lên xe bịt kín chở xuống Nam Ðịnh, rồi chuyển vào Nam đào tạo ở trường sĩ quan Thủ Ðức. Ông chưa hề biết bông mai trên ve áo tròn méo ra sao thì đã bị làn đạn bắn tà âm chéo cánh sẻ lướt mặt cỏ hạ gục vào lần kiểm tra cuối cùng để lấy mảnh bằng tốt nghiệp sĩ quan giữa một trường bắn kiểu Mỹ ở cao nguyên Trung phần. Ông chằng hề có tội gì với tổ quốc mà vẫn bị mang tiếng theo giặc mà chết! Người chú nữa là thợ thủ công an phận thủ thường với nghề phó may, may thuê cho một cửa hàng may mặc ở một phố trung tâm Hà Nội. Ông chẳng quan tâm gì đến chính trị chính em, vì ai thắng thì ông cũng chỉ là thằng phó thường dân cày cuốc, chẳng khác được. Cảnh binh Pháp ập đến tận cửa hàng bắt lính tổng động viên. Trước đó nghe tin Tây lùng sục bắt lính ông đã mấy lần định lánh về quê, nhưng không thoát, vì không ra khỏi nội thành được. Ngày Tây vây chặt các cửa ô, đêm thì thiết quân luật, mà quê em lúc ấy cũng đang là một vùng tề, thanh niên cũng luôn bị bắt lính như trong nội thành. Gia đình phải lo lót mất bao nhiêu tiền ông mới được làm lính canh công sở tại Hà Nội. Hoà bình lập lại 1954, chúng không cho ông giải ngũ mà đưa lên xe bịt kín chở xuống Hải Phòng lên tàu há mồm vào Nam dẹp loạn giáo phái. Ông chú đó chết trong một trận đánh nhau với quân Bình Xuyên năm 1955. Nhắc đến tên ông người làng coi ông là kẻ theo giặc cầm súng chống lại đồng bào! Chiến tranh, người theo bên này được coi là bên ta, người bị ép theo bên kia bị coi là theo địch! Tựu trung, chỉ người dân là thiệt thòi, “con ong cái kiến kêu gì được oan”(5) trước cái guồng máy thời cuộc vần xoay nghiền nát những kiếp người mỏng manh thấp cổ bé họng. Thế đấy… anh thấy buồn không?”.

------------------

(5): Câu thơ Kiều.

 

                              

 

 

 

                                 Phần 1

                            Cõi âm (18)

 

 

Lần lượt Huệ dẫn tôi đi qua mặt mười cung Thập điện, tới cung nào cũng gặp một vị Thập điện vận áo bào tia tía giống màu máu, đầu đội mũ bình thiên, da mặt xanh như da nhái bén, chau mày ngồi trước cái án thư sơn son thếp vàng đặt ngang cửa động với hai tên quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa tay cầm cây đinh ba đứng canh hai bên. Trên mỗi án thư xếp ba bốn chồng sổ sách cao ngất, hai giá bút lông gác ngang nhiều tầng bên hai cái nghiên mài mực, mài son. Âm phủ thế kỷ 21 chẳng tiến bộ gì hơn âm phủ những thế kỷ trước trong các bức tranh khắc gỗ mô tả cảnh địa ngục ở bảo tàng mỹ thuật, tranh tường ở gầm hậu cung chùa Hưng Ký, chùa Sét, Hà Nội ngày xưa.

Người chết xuống Âm ty cứ 7 ngày trải qua một địa ngục để cho một vị Minh vương tra khảo những tội ác và chịu hình phạt rất đáng sợ như bỏ vạc dầu, ném xuống hoả ngục, phanh thây xé xác, voi giày ngựa xé của lũ quỉ sứ cho từng tội lỗi đã phạm trên trần gian. Xin điểm sơ qua lai lịch mười cung Thập điện Diêm La này:

- “Ðộng thập điện thứ nhất: Vị Diêm vương quản ngục có tên là Tần Quảng Vương; tra khảo 7 ngày người chết về tội gian dối, làm lệch cân đong, đấu khảo, đong đầy bán vơi, ép giá, mua rẻ bán đắt…

- Ðộng thập điện thứ 2: Vị Diêm vương quản ngục tên là Sở Giang Vương; tra khảo 7 ngày về tội lừa đảo, lừa thày phản bạn, dối trên lừa dưới, tà tâm, lập bè cánh hại người…

- Ðộng thập điện thứ 3: Vị Diêm vương quản ngục tên là Tống Ðế Vương; tra khảo 7 ngày về tội trộm cắp, cướp của giết người, lập bè đảng đâm thuê chém mướn, cho vay nặng lãi, vu vạ, đốt nhà, phá hoại tài sản của người lương thiện...

- Ðộng thập điện thứ 4: Vị Diêm vương quản ngục tên là Ngũ Quan Vương; tra khảo 7 ngày về tội cậy quyền chức hà hiếp dân lành, mưu mô chiếm nhà, chiếm ruộng đất của dân lành…

- Ðộng thập điện thứ 5: Vị Diêm vương quản ngục tên là Diêm La Vương; tra khảo 7 ngày về tội ăn hối lộ, tham ô lãng phí, ăn của đút lót, làm sai nguyên tắc, phá hoại tài sản nơi công cộng…

- Ðộng thập điện thứ 6: Vị Diêm vương quản ngục tên là Biến Thành Vương; tra khảo 7 ngày về tội hiếp dâm đàn bà, cưỡng dâm trẻ em (hồn ma nam giới), đưa người cửa trước rước người cửa sau, bán dâm (hồn ma nữ giới); buôn bán chất ma tuý, chất gây nghiện…

- Ðộng thập điện thứ 7: Vị Diêm vương quản ngục có tên là Thái Sơn Vương; tra khảo 7 ngày về tội gây binh đao, gây chiến tranh, tranh bá đồ vương đẩy dân lành đến chỗ li tán, khốn khó đói nghèo, khổ ải…

Cứ thế tuần tự qua mỗi ngục chịu tội 7 ngày: 7x7 = 49 ngày, không vướng những tội trạng khác quá trầm trọng thì được về nhà để con cháu cúng đưa vong lên chùa ăn mày cửa phật.

- Ðộng thập điện thứ 8: Vị Diêm vương quản ngục tên là Bình Ðẳng Vương; nơi chờ đợi tuần về trần cúng 100 ngày (bách nhật).

- Ðộng thập điện thứ 9: Vị Diêm Vương quản ngục có tên là Ðô Thị Vương; nơi học tập cải tạo và chờ ngày về nhà cho con cháu cúng giỗ đầu.

- Ðộng thập điện thứ 10: Vị Diêm vương quản ngục tên là Ngũ Ðạo Chuyển Luân Vương; chờ con cháu cúng giỗ hết (giỗ lần thứ 3), xét không có tội gì trầm trọng sẽ được chuyển ra sinh sống ở nơi bình thường, được tự do, được lên thiên đường (Niết bàn), được hoá kiếp, được luân hồi trở lại làm người” ở kiếp sau?!

 

                                            

                                Phần 1

                             Cõi âm (19)

 

 

Giải thích cặn kẽ ý nghĩa, nhiệm vụ của từng ông Thập điện cho tôi nghe xong, Huệ dẫn tôi đến trước vị Thập điện thứ mười:

- Xin giới thiệu với anh Phong đây là Ngài Diêm vương thứ mười, ngài Ngũ Đạo Chuyển Luân Vương. Chúng mình sẽ vào thăm Ðộng thập điện thứ 10 rồi sang thăm các trại, các khu, nơi sinh sống của những linh hồn ở cõi Âm.

Thấy tôi và Huệ đến, vị Diêm vương thứ mười niềm nở với Huệ nhưng lại hỏi xoáy vào tôi:

- Cô Huệ dẫn gã người trần mắt thịt kia xuống đây có việc gì đấy? Đưa lão về chầu ông vải hả? Lão cũng sắp tới số rồi đó! Cho lão xuống đây sớm để trần gian đỡ chật đất!

- Bạn em muốn tham quan cõi Âm để biết.

Miệng nói, tay Huệ móc túi lấy ra biếu ông ta một xếp Ðô la nguyên đai nguyên kiện còn sực mùi bột dong riềng ngai ngái, thứ bột nấu nhuyễn trộn pha mực in lưới để in tiền âm phủ.

- Cô Huệ cứ vẽ, chỗ người nhà với nhau làm thế sao tiện!

Tuy mồm nói vậy nhưng thấy Huệ để xếp tiền lên cái đĩa mặt ông ta tươi roi rói, niềm nở quay lại phía sau phẩy tay ra hiệu cho hai tên quỷ sứ đang mỗi tên cầm một cây giáo chống chéo cánh xẻ trước cửa. Hai tên quỷ sứ tức thì thu lại hai cây giáo đứng dẹp sang hai bên lấy lối để chúng tôi vào động. Hình như các vị Diêm Vương rất thích ngửi cái mùi ngai ngái bột dong riềng của người trần gian nên mặt mũi vị ta nở căng lên như quả bóng bơm căng hết cỡ.

Huệ dẫn tôi vào cái động tranh tối tranh sáng sâu hun hút lạnh lẽo, trên đỉnh hang lập loè vài vệt sáng yếu ớt leo lét vàng vọt như lửa ma trơi của những ngọn nến gây cảm giác ghê ghê, rờn rợn. Từng đám đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, trẻ em kẻ nằm, kẻ ngồi lăn lộn khóc lóc, vật vã. Người không khóc thì mặt buồn rười rượi vẻ nhớ nhà, nhớ trần gian.

Tôi bèn hỏi bâng quơ:

- Trại tị nạn hay sao ấy nhỉ?

Huệ bảo:

- Ðây là địa điểm tập kết những linh hồn để Diêm vương phân loại ra người mắc tội nhiều, tội ít sau đó đưa về các ngục, nơi ở cố định, hoặc các ngục hình đối với linh hồn phạm tội nặng.

Ði một thôi dài mới thấy ánh sáng, mới thấy trời và đất, mới thấy thấp thoáng bóng người đi lại nhởn nhơ như đi xem hội, thực ra họ đang đi làm một việc gì đó và làm cho ai, rất khó suy đoán. Người bê đất đắp thành những cái nấm to để trồng khoai lang ụ, người tìm hót những bãi phân trâu vung vãi hai bên rệ đường, rệ đê, bãi cỏ.

Tôi bèn hỏi Huệ:

- Dưới này cũng cày cấy hay sao mà người ta đi hót phân?

Huệ trả lời:

- Trần sao âm vậy! Nhưng không phải họ hót phân để bón ruộng đâu, hót phân trâu về nấu cám nuôi lợn đấy!

Ngỡ mình nghe nhầm. Không, tôi không nghe nhầm, câu Huệ nói nguyên văn như thế. Tôi lơ mơ nhớ có thời kỳ người ta từng “nhập khẩu” cách trồng khoai ụ của Mao Trạch Đông để có củ to, nuôi lợn bằng cứt trâu cho đỡ tốn cám(!). Kia nữa, một đoàn người đang dàn hàng ngang đập đất. Những chiếc vồ lười biếng đồng loạt giơ lên cao và đứng im cho đàn quạ khoang bay qua đậu trên quả vồ nghỉ chân. Khi những chiếc vồ đồng loạt đập xuống đất thì đàn mối dưới đất kéo đến bu kín lấy quả vồ để gặm gỗ!

Thấy là lạ, tôi bảo:

- Hay nhỉ, họ diễn thế kia để quay phim hay sao hả em?

Tay Huệ bê lấy miệng cười khúc khích, mắt liếc xéo sang tôi chế giễu:

- Anh Phong không phải là người nữa, ngợm mất rồi. Linh hồn không ăn cơm ăn gạo, không may mặc áo quần gì sất, họ chỉ “ăn hương ăn hoa”, ăn những ngôn từ hoa mĩ của lũ quỷ sứ cũng đủ no một bụng tư tưởng lập trường để mộ đạo, để tụng kinh ca ngợi, còn tiền bạc, của cải tất tật dành phần cho các vị Thập điện ông Diêm Vương thụ hưởng! Ðây là Diêm Vương hành tội những kẻ khi ở trần gian làm ăn chểnh mảng, dối trá, lười biếng đó.

Âm ty mà nơi nào cũng thấy trồng hoa, trồng cây cảnh, hình như để cho các vong hồn “sống khôn chết thiêng ăn hương ăn hoa”; cây cảnh để cho quỷ sứ và thập vị Diêm Vương thưởng ngoạn. Vì không được ăn thật nên các linh hồn sinh ra làm việc biếng lười trễ nải như vậy chăng? Ấy là tôi suy diễn liều ra thế, đúng hay sai cũng không biết nữa, Cũng không muốn hỏi Huệ, vì hỏi bất cứ vấn đề gì cũng bị Huệ chế giễu, nhạo cười, cứ như tôi là thằng ngu nhất trần đời.

 

 

                                 Phần 1

                              Cõi âm (20)

 

Chúng tôi đến thăm anh Mít. Mít là người cùng làng với Huệ. Anh là một dân quân du kích, một xạ thủ khẩu đội súng cao xạ 12,7ml, hồi chiến tranh phá hoại miền Bắc. Xã anh được phát cỗ súng cao xạ để cho dân quân du kích bảo vệ đập thuỷ nông và một xưởng sản xuất nông cụ của huyện đóng gần đó.

Mít đang quỳ hai đầu gối lên một vật xù xì, bàn tay ôm bàn tay nhăn nhó khi chúng tôi đến. Thấy chúng tôi vào, Mít Bảo:

- Hôm nay trên trần gian giở giời nên cái tay tôi đau nhức quá cô Huệ ơi!.

Huệ hỏi:

- Bị rắn cắn lâu thế rồi mà tay anh vẫn chưa khỏi sao?

- Khỏi thì khỏi rồi, nhưng hễ cứ trên trần giở giời là tay tôi lại nhức buốt mới chán chứ, hình như cái thứ nọc rắn chết tiệt ấy vẫn gậm nhấm âm ỉ linh hồn tôi cô ạ!

 

Chuyện về Mít:

Sát bờ giậu nhà Mít, nhà hàng xóm có cây mít dai hàng năm ra quả rất sai. Quả bu từ gốc đến cành chạc cái, chạc con quả nào cũng nây đều, múi to thô lố, xé múi nào ra ăn trong lòng múi cũng có nước sánh như mật ong ngọt lịm. Nhà hàng xóm này cũng thuộc diện biết điều, mùa nào cũng mang sang biếu nhà Mít một quả to nhất, với nhã ý bồi thường cho vườn nhà Mít bị vài cành chìa sang gây cớm vườn, hại cây trồng bến đó. Hai nhà vui vẻ thân tình với nhau lắm. Rồi không biết nghe ai xui, hay học được ở đâu tính thích chiếm đoạt của người khác làm của mình. Mít ngấm ngầm đào một cái hầm “bí mật” sát bờ rào nhà hàng xóm làm trơ gốc, trơ rễ cây mít phía nhà mình ra (tất nhiên là dưới lòng đất). Ðến mùa mít ra quả, phía gốc dưới “hầm bí mật” của Mít, mít ra quả sai nhung nhúc như đàn lợn, còn trên cây chỉ lèo thèo vài quả còi, quả cọc. Để ăn không được số mít đó, mùa mít chín năm ấy Mít bèn giong xe đạp thồ đi buôn mít. Các phiên chợ Sấu Giá, chợ Phùng, chợ Gạch, Mít dậy sớm đạp xe tới buôn mít thồ về nội thành bán. Với hình thức “ngụy trang” ấy, Mít đã “ăn” ngon số mít trong hầm “bí mật” nhà mình.

Ăn ngon mùa mít trước, đang nóng lòng chờ ăn tiếp mùa mít sau tiếp, quả ra sai lúc nhúc dưới hầm. Hôm ấy từ trận địa vừa thay ca trực về nhà, đi qua vườn, ngửi thấy mùi mít chín thơm thoảng từ hầm bay ra. Mít liền chui xuống vỗ tìm quả chín. Vừa thò tay vỗ vỗ vào đống mít lúc nhúc bất đồ nghe thấy một tiếng phun phì, tiếp một cú mổ đánh nhằng của con rắn hổ mang bành trúng mu bàn tay. Vết cắn tuy chỉ rớm máu nhưng buốt thon thót. Mít vội vàng chạy ra trận địa tìm túi bông băng để băng vết thương và cũng tìm cách trị rắn cắn.

Đến cách trận địa chừng 500 mét thì cũng lúc ấy một tốp máy bay Mỹ đánh phá nội thành quay ra, một chiếc lao xuống cắt nốt quả bom còn lại xuống trận địa. Nghe bom rơi reo réo trên đầu, Mít vội lăn xuống lòng con mương cạn. Bom nổ, Mít bị sức ép nhẹ. Máy bay Mỹ đi rồi, mọi người tưởng Mít bị bom vùi, họ chạy về phía Mít, thấy Mít nằm dưới lòng mương, tay bị thương, mọi người liền băng bó và dìu Mít về trận địa. Nhưng chỉ nửa giờ sau hai bên mép Mít sùi bọt, da tím tái, chân tay lúc co rúm, lúc rướn người quằn quại, sau đó Mít thỉu dần. Mấy người lấy võng định khiêng Mít đi bệnh viện thì anh đã tắt thở. Họ cho rằng Mít bị sức ép bom Mỹ mà hy sinh!?

 

Ngồi trước tôi và Huệ là anh chàng Mít xanh xao, má hóp, cổ cò dài ngoẵng, tay chân cà khẳng cà kheo, đang nhăn nhó vì những cơn đau buốt từ di chứng bị rắn cắn, các ngón tay co quắp biến dạng, đang bị thời tiết hành hạ mà hai đầu gối Mít vẫn quỳ trên hai tảng gai mít.

Tôi hỏi Huệ:

- Diêm Vương cũng bắt tội liệt sĩ à?

Huệ lắc đầu:

- Anh ta tự hành hạ mình để chừa cho đến kiếp sau tội tham lam của mình trước đây, đấy!

Nghe tôi nói Mít là liệt sĩ, Mít giãy nảy, thanh minh:

- Tôi không là liệt sĩ. Khi tôi chết, trần gian họ vẽ vời ra thế, nào tôi biết gì đâu.

Huệ liền an ủi:

- Thì anh Mít cứ coi mình là liệt sĩ cũng có sao đâu! Anh hy sinh lúc đang làm nhiệm vụ chiến đấu cơ mà. Còn hơn lắm kẻ chẳng đi bộ đội ngày nào, không tham gia dân quân du kích ngày nào, có người nhà làm công việc chính sách, ngầm phong liệt sĩ cho nhau. Lại có kẻ được phong thương binh từ vết sẹo thời chăn trâu cắt cỏ do bị trâu húc, vẫn khoẻ re hưởng chế độ đãi ngộ của nhà nước bình thường. Như chuyện ở tỉnh này tỉnh kia đó, nhiều người không tham gia Thanh niên xung phong ngày nào cũng được cộng nhận là cựu Thanh niên xung phong hàng loạt, để hưởng chế độ hàng loạt gây công phẫn trong xã hội, anh không biết à?

 

 

                                Phần 1

                            Cõi âm (21)

 

 

Ðang nói chuyện với Mít, bỗng nghe trong góc khuất bên cạnh có tiếng người kêu ái ái, ôi ối. Tôi quay sang hỏi Huệ:

- Anh này sao thế nhỉ?

Huệ tủm tỉm cười, rồi quay đi không nói gì. Mít cũng tủm tỉm cười. Một lúc sau Mít kể:

- Thằng này là lính đấy, mác giải phóng quân hẳn hoi, to cao đẹp trai mà chưa vào đến chiến trường đã nhát chết, “tuột xích” lủi về tuyến sau, rồi về cày ruộng. Giá cứ yên phận cày ruộng cho HTX lấy công điểm ngày vài cân thóc mà ăn cho yên phận không muốn, lại nổi máu dê cụ. Xí xớn ngủ với vợ bạn thời bạn ở chiến trường. “Ăn non” lúc bạn đi vắng thôi có phải ngon lành không? Ðằng này lại tham, bạn về rồi vẫn “quen mui thấy mùi ăn mãi” bị nó bắt được, kéo cả họ đến đè ra “xin” nửa con cu, xấu hổ không dám đi bệnh viện, chữa lang băm ở nhà, bị nhiễm trùng nặng, dẫn đến nhiễm trùng máu mới đến bệnh viện thì đã muộn, chết toi xuống đây, bị hẹp lỗ đái nên nước tiểu cứ ri rỉ chảy suốt ngày ướt sũng cả đũng quần khai mù khai mịt chẳng ai dám đến gần. Người nhà trên trần ăn nên làm ra cúng xuống nhiều bia rượu, hoa quả, thịt cá, ăn uống đẫy vào bài tiết không kịp nước tiểu ứ đầy bàng quang gây tức, cố dặn mạnh cho dòng nước chảy nhanh, đau kêu ối ối, ái ái luôn mồm như vậy đó. Ðược sướng một tí thành thử mất toi con giống, toi cả mạng sống, còn khổ dai dẳng có thể đến cả kiếp sau nữa chứ. Kiếp sau có được lên làm người, thiếu đứt con cu thì chán chết!

Nói xong câu ấy Mít tủm tỉm cười. Khi mặt không còn nhăn nhó nữa trông Mít tươi tỉnh, cởi mở, nổi trội chất hài hước ở con người anh. Một chàng trai như Mít, nếu được sinh ra ở một đất nước không phải bon chen nhiều về chuyện miếng cơm manh áo để tồn tại, không bị di truyền tính gian vặt từ tổ tông, có cuộc sống vô tư, tin là anh sẽ làm vui cho đời bằng năng khiếu khôi hài, hài hước trên sân khấu, trên phim, trên truyền hình… có thể lắm chứ!

Mít bảo:

- Cô Huệ còn nhớ Vinh làng mình không? Nó ở gần đây, cô sang thăm hắn một lát đi. Giờ hắn thế nào ấy, khó hiểu lắm. Hễ cứ gặp những cây to, cây cao là đòi chặt bỏ và tránh chạy. Không hiểu sao mà thằng ấy, bây giờ ghét những cây cổ thụ đến thế không biết nữa? Hay tại ngày nhỏ hay leo trèo phá tổ, bắt chim non về nướng chả bị chim oán cũng nên!

- Làng ta có ba Vinh hy sinh, anh nói Vinh nào?

- Vinh Leng Keng ấy. Cái thằng lớn tướng mà cổ vẫn đeo vòng bạc gắn ba cái chuông, hễ chạy nhảy tới đâu chuông kêu leng keng loạn xạ đến đó, người làng lấy đấy đặt cho hắn biệt danh Vinh Leng Keng, cô nhớ không?

- À, em nhớ rồi, cậu ta còn biệt danh là vinh “lỏi” nữa!.

- Cô Huệ nhớ kĩ nhỉ. Cái thằng khôn lỏi từ bé. Chính nó chết vì tính khôn lỏi của nó !

 

 

 

 

 

 

 

                                Phần 1

                             Cõi âm (22)

 

Hai người tíu tít ôn lại chuyện thời thơ ấu một cách say sưa. Rồi Huệ lấy từ túi ra chiếc gương con hình bầu dục giơ ra bảo tôi và Mít:

- Em có chiếc gương tiên Quá Khứ Hiện Về đây, chúng ta cùng xem hồi ở chiến trường Vinh thành tích ra sao nhé! Các anh nhìn đây.

Huệ xoay xoay vành gương mấy vòng để chỉnh hình ảnh. Trong gương loang loáng hiện ra một vùng đồng bằng trù phú, những cánh đồng trắng nước, nhấp nhô bờ ruộng, lô mô những gò đất, kênh rạch. Bờ kênh rạch nào cũng có hai hàng dừa nghiêng mình soi bóng xuống dòng nước trong mát êm đềm. Những làng, xóm hiền lành lặng im thu mình dưới bầu trời xanh hiền hoà. Bỗng những chiếc máy bay tiềm kích mang hỗn danh “Con ma, Thần sấm” bộ dạng dữ dằn, nghiêng cánh bên phải, đảo mình sang trái, gầm rú nối đuôi nhau bay hàng ba hiện ra to dần như đàn cá mập lướt trên bầu trời yên bình trước đó. Ðang bay bỗng chúng tản đội hình, cái vọt lên cao, cái rẽ trái, cái quặt phải nghiêng cánh chao đi đảo lại, lộn xuống nhào lên vài vòng để xác định, tìm kiếm, căn chỉnh mục tiêu, sau đó xếp hàng một cắn đuôi nhau đâm bổ xuống. Từ bụng lũ quỷ ma nhà trời ấy nhả ra những chùm bom. Những chùm bom ào ào rơi xuống ngôi làng xanh êm những ngọn dừa đang vô tư dang hàng nghìn cánh tay lá vẫy lên bầu trời thăm thẳm, bỗng nhiên vô cớ bị băm ra từng mảnh nhỏ vung toé lên mây theo những quầng lửa da cam chớp sáng nhằng nhằng bốc cao thành những cột khói đen cuồn cuộn mờ mịt che đen một góc trời. Sau một hồi dai dẳng chà đi xát lại hết bom lại đạn, tiếp đến đàn máy bay lên thẳng ào ào bay đến. Cánh quạt chong chóng trên lưng quay tít, táp gió ràn rạn làm nghiêng ngả, chao đảo ngọn cây bờ cỏ. Rồi lũ diều lũ quạ ấy từ từ đáp mình xuống một bãi trống cạnh ngôi làng mà lũ máy bay phản lực vừa tới tấp đánh bom không thương tiếc trước đó. Từ bụng những chiếc máy bay lên thẳng, một lũ lính rằn ri đầu đội mũ sắt bọc lưới, tay nhăm nhăm tiểu liên cực nhanh nhảy ào ào ra toả đi, đứa lăn ra ôm một mô đất, thằng chiếm một bờ ruộng, bờ kênh phủ phục chĩa súng bắn như vãi đạn vào những mái nhà tranh ẩn dưới những gốc dừa trong làng.

Xung quanh làng, một trận địa gồm một đại đội bộ binh cũng đang lăm lăm tay súng dọc chiến hào chờ sẵn, đón chào đám lính đổ bộ đường không kia. Tiếng đạn bay chiu chíu trên đầu. Mặc, họ vẫn chắc tay súng lặng im chờ đợi; chờ bọn địch tới thật gần mới nổ súng. Bỗng một người từ giao thông hào ôm cây súng vọt khỏi vị trí nhao đến một gốc cây cổ thụ cao nhất làng, đồng đội của anh ta không kịp phản ứng, không kịp giữ lại, tất cả đứng lặng nhìn theo. Duy chỉ viên đại đội trưởng rê nòng súng theo nhưng không bóp cò vì để giữ bí mật trận địa, giữ yếu tố bất ngờ cho trận đánh.

Phía quân đổ bộ đường không sau khi chiếm lĩnh quanh rìa làng rồi, triển khai một trận địa súng cối, lấy cây cổ thụ cao nhất làng làm vật chuẩn thả đạn vào nòng súng bắn vót cầu vồng quanh cây cổ thụ đó. Rồi cứ thế họ bắn tản dần ra xung quanh. Ngay loạt đạn đầu người lính bỏ vị trí, bỏ đồng đội chạy đến ẩn vào gốc cây đã bị trúng thương nặng. Anh ta vứt súng lăn ra đất kêu ôi ối, máu nhoe nhoét đỏ lòm túa ra chỗ cánh tay cụt, cả một bên chân nữa, cũng bị cụt. Cánh tay còn lại cuống quýt lúc bịt máu chảy nơi cánh tay, lúc bịt máu chảy vết thương dưới chân, miệng gào: “Chúng mày ơi lên cứu tao, cứu tao… Ới mẹ ơi con chết mất… Ð. mẹ chúng mày không cứu tao…!”. Có hai người vọt khỏi chiến hào chạy về phía gốc cây để cứu bạn. Hai người chưa tới được gốc cây đã ngã gục do một chùm đạn cối tới tấp nổ gần.

Huệ bấm nút tắt, cất gương Quá Khứ Hiện về vào túi, rồi nói với tôi và Mít:

- Rõ về Vinh rồi, mình đến thăm anh ta đi, hai anh.

Ðứng trước một khu phố lộn xộn các kiểu nhà. Nhà cao chèn nhà thấp, cái nhô ra cái thụt vào, cái ngoảnh xuôi, cái quay ngược tùm lum, không hàng dọc, cũng chẳng hàng một cách vô lối.

Tôi buột mồm chê:

-Trông như nhà đúc sẵn từ nơi khác đem đến!

Nghe tôi nói thế, Mít bảo:

- Ðúng đấy bác ạ! Nhà ở đây là nhà do người trần gian gửi xuống cả, thấy chỗ nào đất bỏ không họ rủ nhau đem đặt vào và đến ở, không ai quản lý sắp xếp nên nó lộn xộn vô tổ chức, chẳng ra ngõ ra phố gì ráo, như trên trần gian gọi là xóm liều ấy, ai lần đầu đến đây đi tìm địa chỉ thì khó khăn, vất vả lắm.

Mít dẫn chúng tôi đi vòng vo tiến vào một cái ngõ chật sâu hun hút. Rẽ trái ngõ này, rẽ phải ngách kia, hết quẹo trái, rẽ phải đến bảy tám lần ngóc ngách một lúc lâu mới đến được nhà vinh. Vinh đang nằm đu đưa trên võng. Không phải võng Trường Sơn, không phải võng đay cổ truyền, một cái võng dù xanh màu lá cây thời hiện đại mắc trên giá inốc gọn gàng chắn ngang giữa cửa đang mở rộng hai cánh. Chúng tôi vào tận nơi anh ta vẫn không hay biết. Ðến lúc Mít cất giọng e hèm để đánh tiếng, cả kèm một câu khen:

- Anh Vinh mới tậu được cái võng đẹp nhỉ!

Tuy nhỏm người dậy nhưng Vinh vẫn ngồi nguyên trên võng:

- A, chào anh Mít. Khoẻ không? Võng trên nhà mẹ em vừa gửi xuống cho, nằm êm lắm anh ạ! Làng mình đô thị hoá rồi, nhà em trên kia xén đi một phần đất thừa kế của tổ tiên bán bớt cho người trên phố về mua làm nhà nghỉ cuối tuần được nhiều tiền lắm, giàu lắm!

Thảo nào thấy trên cổ anh ta đeo cả sợi dây chuyền vàng như sợi dây xích chó. Chắc vàng từ trần gian chia cho “gửi xuống”- Tôi nghĩ thế!

Mít nói:

- Mình vẫn vậy, sức khoẻ mình nó cứ tằng tằng vậy, đôi lúc đau ốm qua loa như người giả vờ. Cậu biết ai đây không? - Mít chỉ vào Huệ.

Vinh lúng túng xoa xoa bàn tay lên phần đùi còn lại, mẩu cẳng tay trái bị cụt co vào duỗi ra trông như đầu con bổ củi đặt nằm ngửa đang búng đầu xuống đất để lật mình cất cánh bay. Khi nhận ra Huệ, Vinh reo:

- Huệ, Huệ… Hồng Huệ! Huệ hát hay nhất làng ta đây. Anh Mít còn nhớ chứ. Ngày xưa muốn được nghe Huệ hát phải có năm bông hoa hồng thật đẹp. Hồi ấy kiếm được năm bông hồng đẹp đâu có dễ, phải xuống tận quầy hoa bờ hồ mới mua được phải không anh Mít?

Họ là ba người cùng làng gặp nhau tíu tít chuyện trò, tôi là người “ăn theo” nên đi sau đứng ngoài cửa vừa nghe chuyện vừa quan sát chung quanh xem cái xóm liều Âm phủ có gì khác xóm liều trần gian không.

Một người hàng xóm thấy bên nhà Vinh có khách liền chạy ra sân nghến cổ ngó sang. Tính cách người Việt mình xưa, nay vẫn vậy, cả khi đã thành hồn ma vẫn thích tò mò, hiếu kỳ, thích săm soi, thích chõ mũi vào chuyện người khác. Gã này ăn mặc khá sang trọng, com lê, cravat, giầy giôn đen bóng, đầu chải mượt lệch đường ngôi bên trái, trên môi vắt vẻo điếu thuốc đầu lọc gân cổ rít từng hơi dài ngậm khói lại trong mồm một lát rồi mới từ từ thở khói ra làm cho hai cánh mũi cứ phập phồng phập phồng lên. Tôi nhìn vào nhà gã thấy một bàn đầy các loại hoa quả chín đựng trong nhiều chiếc đĩa. Tủ tường trưng bày các loại rượu ngoại đủ chai nhỏ chai to, cốc, ly pha lê óng ánh. Ti vi, đầu xem đĩa hình đủ bộ, cả một chiếc xe ôtô con hiệu Méc - xì - đéc màu đen bóng lộn để ngoài sân. Thấy vậy, tôi nói bâng quơ:

- Nhà bên kia sang trọng quá nhỉ? Chắc ngày xưa làm quan to? Còn trẻ thế mà đã làm to? Chắc học giỏi và tài năng lắm ?

Vinh trả lời cũng pha chút bâng quơ

- Chẳng biết nữa!

- Sao anh không tìm hiểu? - Tôi hỏi Vinh.

- Tìm hiểu làm gì cho mất thời giờ, để họ nghĩ mình tò mò, chõ vào việc người khác.

Nghe tôi thắc mắc về cái sự giàu sang của người hàng xóm cạnh nhà Vinh. Huệ lấy Gương Quá Khứ Hiện Về ra bảo:

- Xem gương sẽ biết.

 

 

 

                               Phần 1

                            Cõi âm (23)

 

 

Trong gương hiện ra một mô đất thấp tịt do bị mưa nắng bào mòn nằm trên một gò đất hoang giữa cánh đồng ngập nước. Dưới lòng đất là hai bộ xương, bộ xương nằm trên sâu chừng 80cm, bộ nằm dưới sâu hơn khoảng một mét hai. Bộ xương trên là của một người lính VNCH chôn sau; nằm dưới là hài cốt của một chiến sĩ giải phóng quân thời những năm 60 - 70 thế kỷ trước. Một đoàn năm sáu người mặc đồ quân nhân do một người nông dân dẫn đường, người cuốc, người xẻng đào đào bới bới. Xắn chừng ba thép mai họ đã gặp bộ xương nằm bên trên. Khi lau rửa để xếp vào tiểu sành họ mới nhận ra đó không phải hài cốt liệt sĩ mà họ muốn tìm, mà đó là bộ xương của một lính chiến phía đối phương, bởi trên cẳng xương tay trái còn đeo cái lắc bằng thép không gỉ khắc một dãy chữ số khá dài, số hiệu đơn vi của người lính đó. Họ định chôn trả lại nhưng người nông dân nhất quyết khẳng định đó là mộ của chiến sĩ giải phóng quân đằng mình, hy sinh trong một trận đánh mà hồi đó bác là du kích cùng tham gia, rồi chính tay bác chôn cất người liệt sĩ này. Bác còn nhớ rõ họ tên, số hiệu hòm thư đơn vị thêu bằng chỉ màu mặt sau ve áo. Hàng năm, nhớ ngày anh hy sinh bác nông dân Nam Bộ ấy vẫn hoa quả vườn nhà thắp hương cúng giỗ anh.

Thể theo trí nhớ của bác là đúng, điều bác nông dân không ngờ tới là ngôi mộ anh giải phóng quân do bác chôn cất ngày ấy, chỉ sau đó ít ngày bị một quả đạn pháo bắn vu vơ rơi trúng, san bằng địa mất cả nấm. Thời gian sau, một người lính phía bên kia cũng đem xác đồng đội của họ chôn chồng lên trên. Nghe người dẫn đường tìm mộ liệt sĩ cả quyết vậy nên những người đi tìm mộ liệt sĩ tiếp tục đào sâu xuống. Quả nhiên bên dưới có bộ hài cốt thứ hai gói trong tấm nylon xám - Tấm tăng dã chiến.

Hai kẻ từng đánh nhau chí mạng, kẻ trước người sau cùng chết, nằm chung trong một vuông đất lạnh. Không hiểu lão tạo hoá già nua lẩn thẩn, lú lẫn, hay do lão thích chơi khăm, trêu ngươi cõi đời, bỉ báng cõi người! Hai bộ xương nằm đó, chính là hai anh em ruột cùng bố mẹ sinh ra. Bộ hài cốt thứ hai được những người đi tìm mộ liệt sĩ rửa, lau sạch cho vào chiếc tiểu sành khác đem về nghĩa trang liệt sĩ, còn tiểu xương người lính VNCH, họ chôn trả lại đúng vị trí đó, đắp nấm cẩn thận; bởi vị trí, thân phận bộ xương này là nằm ở đây, gò đất hoang lạnh này vì anh ta là lính phía bên kia chiến tuyến: lính giặc, là “kẻ thù”…!

Chúng ta cũng nên biết qua một chút về thân phận hai anh em họ.

Một ngôi làng nhỏ thuộc miền Trung Trung Bộ, vào quãng năm 1954 - 1955. Ðôi vợ chồng trẻ với hai đứa con trai tan đàn xẻ nghé do cái hiệp định đình chiến mãi tận thành phố Genève nước Thuỵ Sĩ. Người anh theo cha ra miền Bắc tập kết, người em ở lại miền Nam cùng mẹ. Mẹ của họ là người đàn bà đẹp; người đẹp sống một mình lại có chồng Việt cộng thì khó có cuộc sống bình yên trước những người lấy nghề binh nghiệp, lấy súng đạn làm kế mưu sinh; sống chết khôn lường nên bản năng sinh tồn của hạng người này là sống gấp, sống hôm nay dốc mình cho tàn cuộc ngày hôm nay, ngày mai vuông hay tròn, méo mó không cần biết, không cần thiết. Kiểu sống gấp ấy thường sinh tính ác, manh động, răm rắp làm theo ý cấp trên chỉ bảo: “Muốn chiến thắng Việt cộng trước hết phải đánh cho tan cái gia đình của họ trước đã”. Cái đối sách dư phần hoang dã, tàn bạo ấy được những người lính chuyên nghiệp phía bên kia giở ra hành sự trên khắp miền Nam ngày ấy. Từ doạ nạt, o ép, đến mua chuộc, bắt buộc…. Người mẹ trẻ ấy muốn được sống yên thân đành phải nhắm mắt làm vợ bé gã sĩ quan hám gái kia. Đàn ông đa phần thuộc giống ích kỷ. Thích chiếm đoạt đàn bà đẹp nhưng lại không chịu chấp nhận con cái họ! Chính vì thế mà người em ở lại miền Nam với mẹ vừa đến tuổi khôn lớn đã bị bố dượng đẩy vào lính để chống lại người cha Việt Cộng của mình.

Người anh theo cha tập kết ra miền Bắc, được theo học trường học sinh miền Nam và trưởng thành trên miền Bắc, sau đó về Nam chiến đấu để giải phóng quê hương. Hai đội quân trong đó có anh em họ đánh nhau ba năm liền trên cái mảnh đất hẹp ấy để dành giật một vùng đệm. Một bên tiến lên rừng, một bên tiến về đồng bằng nên họ tìm cách tiêu diệt nhau bằng những trận đánh kịch liệt. Cả hai đều tử trận tại chính nơi ấy, vô tình họ được nằm bên nahu chung nấm mộ cho đến ngày 30 - 4 - 1975. Người anh được di rời về nghĩa trang liệt sĩ, còn người em, kẻ bại trận nằm lại trên gò đất giữa cánh đồng sương trắng nắng, mưa ấy. Rồi người em cũng được người mẹ tìm được mộ, do người bạn là lính cùng đơn vị, người chôn cất người em dẫn về vùng chiến trường xưa, tìm để cải táng. Họ đi tìm và hỏi thăm đúng bác nông dân biết về ngôi mộ ấy. Bác bảo:

- Mộ con bà đã được các chú giải phóng “tắm rửa” sạch sẽ bằng nước thơm, hớt vào tiểu sành rồi, cứ việc mang về mà chôn cất.

- Phước đức quá, cảm ơn chính phủ, cảm ơn trời, cảm ơn ông hai.

Khi đào lên, mở tiểu ra người mẹ nhận ra đúng là hài cốt con mình. Người mẹ đau khổ ấy vồ lấy hộp xương sọ của con giơ lên nhìn, nhận ra hàm răng con trai, người mẹ thất thanh :

- Ðúng con tôi rồi, hàm răng con tôi, cái răng nanh mọc lẫy của nó đây, đúng rồi! Con ơi là con ơi!

Sau đó người mẹ di dời hài cốt con mình về một nghĩa trang thường dân ở ngoại ô một thành phố. Mộ được xây khá đẹp, ốp đá Granite loại đắt tiền nhất. Ngày Vọng - Sóc bà mẹ cúng xuống cho người em nào hoa, nào quả xếp đầy một bàn. Như lúc đứng trước cửa nhà Vinh nhìn sang, chúng tôi thấy…

 

                                      

 

                                 Phần 1

                              Cõi âm (24)

 

Ra đến đầu con hẻm, chúng tôi định chia tay Vinh thì gặp một người đàn ông to béo, bụng phệ cùng ba người trẻ hơn, mỗi người một góc khệ nệ khiêng cái nhà hai tầng đi vào chắn mất lối, chúng tôi ai nấy đều né người tránh, nhường đường cho họ đi. Họ khiêng cái nhà đem đến đặt trên một thửa đất trống cách đấy không xa, vẫn trong phạm vi cái xóm liều Âm phủ như đã kể.

Thấy thế Mít hỏi:

- Ông Ðông này xin về làm gì lắm nhà thế nhỉ?

Vinh bảo:

- À, ông ấy xin để dành cho các con. Kế hoạch là bảy cái cơ đấy, vì ông có bày đứa con. Ðâu như đã xin được cái này là thứ bốn, còn thiếu ba cái nữa mới đủ. Cứ ai được người nhà trên trần “gửi” xuống cho nhà mới to hơn, cao tầng hơn, đẹp hơn, họ bỏ nhà cũ đi là ông ấy xin về, đem đặt ở đây để tích trữ! Ngày ở trần gian tính cách thế nào xuống đây ông ta vẫn vậy, không thay đổi!

- Trên trần gian ông ta làm gì? - Tôi hỏi.

- Trưởng sở công trình công cộng, bây giờ gọi là Tài nguyên & Môi trường hoặc nhà đất gì đấy! - Vinh giải thích.

Huệ đưa Gương Quá Khứ Hiện Về ra bảo:

- Xem gương sẽ biết!

Trong gương hiện ra ông Ðông thời trẻ đang trần trùng trục, da đen trùi trũi với cái đầu tổ quạ sém nắng, mái tóc đỏ hoe như lông bò; trên người duy nhất một mảnh khố nâu vấn lẳn cuộn vào hai bẹn, đang chân đạp đạp cái mõ giậm. Ðộng tác cứ thế lặp đi lặp lại, quơ giậm ra xa, tay giữ cán giậm, chân thông thốc đạp mõ giậm lùa tôm cá vào giậm rồi nhấc nhanh khỏi mặt nước, tay nhon nhón nhặt, chộp, bắt bỏ vào giỏ đeo lủng lẳng ngang thắt lưng. Cũng lúc ấy trong làng rộ lên tiếng chó sủa, tiếng hô hoán, tiếng súng nổ đùng đoành vọng ra bờ sông càng lúc nghe càng to hơn, rõ hơn, gần hơn, láo loạn hơn. Bỗng một người hớt hải chạy tới chỗ Ðông, nói:

- Em ơi, bọn lính Tây, bọn chánh tổng, lý trưởng đang đuổi bắt anh, có cách nào giúp anh với. Anh là cán bộ hoạt động cách mạng, cán bộ cách mạng em nghe tiếng bao giờ chưa?

- Cán bộ hoạt động hay trộm đêm bị người ta đuổi? - Ðông hỏi lại.

- Anh là cán bộ cách mạng thật mà, kẻ trộm thì chỉ tuần đinh đuổi bắt chứ việc gì phải cả bọn lính Tây? Có cách nào giúp anh qua sông ngay được không?

- Muốn qua sông chỉ có cách ôm cây chuối mà bơi. Nhưng không kịp đâu anh, nghe như chúng đang đuổi đến đê rồi, chỉ còn cách chui xuống hầm bẫy ba ba của em đằng kia mà trốn. Năm ngoái em cũng đã giấu một anh bằng cách này. Nào theo em, nhanh lên.

Thời gian này đang mùa ba ba lên bờ tìm nơi đẻ trứng, Ðông đào những cái hầm to và sâu dọc bãi sông hóng ba ba bò đi tìm nơi đẻ, sa xuống hố để bắt. Ðông giấu anh cán bộ vào một cái hố đào nằm giữa khu kè đá xếp gồ ghề chắn sóng. Các khe đá mọc kín cây tàu bay, cây chút chít, cây bèo tây mắc lại sau mùa lũ ngập tràn bờ kè, khi nước rút bèo Tây giắt lại, cây nào bám được rễ vào đất thì mọc lên xanh tốt, còn cây không bám được vào đất thì nằm chết khô trên đá bờ kè. Lợi dụng địa hình ấy Ðông lấy rác và bèo tây khô phủ kín lên miệng hố để giấu người cán bộ rồi tiếp tục xuống sông đánh giậm bình thường như chẳng có chuyện gì xảy ra trước đó. Bọn người đuổi theo tới bờ sông không thấy người chúng truy đuổi đâu, chỉ thấy một bờ sông vắng với một mình Ðông. Lão lý trưởng sấn sổ chỉ chiếc ba toong vào giữa mặt Ðông, quát:

- Cu Ðông! Mày giấu thằng Cộng sản vừa chạy chỗ nào, khai ra mau?

- Ông lý nói hay nhỉ? Con đánh giậm kiếm cơm ăn không xong biết gì Cộng Sản mà ông lý bảo con giấu? Bãi sông trống trơn thế này con giấu người ta vào đâu được ạ? À, hình như con thấy thoáng có bóng người chạy vào khu vườn dâu kia, ông dẫn các quan lên đó mà tìm.

- Thật không? Mày mà giấu nó các quan sẽ xử bắn đấy con ạ!

- Vâng! Nếu con giấu, ông lý và các quan cứ việc xử bắn thẳng thừng, con khỏi phải đi đánh giậm!

- Liệu hồn! Còn cãi bướng hả?

Rồi cả lũ xồng xộc kéo nhau xông vào bãi dâu. Lại tiếng súng nổ, tiếng hò hét, quát tháo, nạt nộ những người đang hái dâu về chăn tằm trong vườn buổi sáng ấy.

Từ việc giấu, cứu thoát người cán bộ hoạt động cách mạng bị địch rượt đuổi lần ấy. Sau đó người cán bộ đó trở lại cho Ðông đi theo hoạt động cách mạng, đi kháng chiến. Trong kháng chiến Ðông ở đội biệt động chuyên đi diệt ác phá tề. Xã nào, thôn nào có kẻ đứng ra lập làng tề, theo giặc hoặc làm chỉ điểm cho Tây là đội biệt động của Ðông đến bắt đem ra giữa cánh đồng, hay bờ sông cảnh cáo. Kẻ ngoan cố, cảnh cáo đến lần thứ ba không nghe, vẫn cố tình theo Tây lập làng tề, dẫn lính đồn đi bắt phu bắt lính thì không có lần thư tư cảnh cáo nữa, mà trừ diệt luôn. Vì những kẻ đó đã cố tình làm tay sai cho giặc rất khó cải tạo.

Ban ngày lính Tây càn về bắt cả làng ra tập trung ngoài sân đình, thấy người có máu mặt chúng chỉ định, bắt phải làm lý trưởng, không nhận làm thì Tây cho là theo Việt minh, bắt tù đầy, mà nhận làm việc cho Tây thì Việt Minh đêm về bắt đi “cảnh cáo” bằng cách cho chứng kiến cảnh họ chém một lý trưởng ngoan cố của làng nào đó cố tình làm việc cho Tây.

Sống trong vùng dở giăng dở đèn, Tây nghi, ta kị, phận người dân rất khó ứng xử, vớ vẩn đứt đầu như chơi.

Kháng chiến thành công, Ðông được gửi đi học trường bổ túc Công nông, khi có trình độ văn hoá nhất định Ðông được phân về làm cán bộ cục Công trình Công cộng. Rồi Ðông đưa toàn bộ vợ con từ quê ra tỉnh sinh sống. Chuyện chẳng có gì để nói, nếu như Ðông cũng như trăm, nghìn, vạn, triệu người cán bộ khác, lấy việc phục vụ nhân dân, làm “đầy tớ” dân như mục đích ban đầu thì nhân dân hoan hô lắm. Ai để ý đến Ðông làm gì cho mệt xác!

Không thế, được nhà nước giao cho quản lý sở nhà đất. Khi quyền chức trong tay, nay duyệt cấp đất cho xí nghiệp này, mai duyệt phân nhà cho cơ quan kia. Hợp lý lắm, nguyên tắc trên giấy tờ sòng phẳng, đứng đắn vô tư lắm. Nhưng! Cái chữ nhưng nó như cái xe ôtô đang phóng nhanh đột ngột phanh khựng! Xe khựng lại rồi bốn cái bánh đâu chịu khựng lại cùng, theo đà nó còn rê đi làm cháy một vệt đường dài mới chán, mới hãi hước, mới kinh khủng khiếp Bởi: “Người ta sinh ra có đủ đầu, mình, chân, tay, mắt, mũi, mồm miệng...” Có chân thì phải đi, có tay thì phải cầm, có mắt thì phải ngắm, có tai thì phải nghe, có mũi thì phải ngửi, có mồm thì phải nhai, có đầu thì phải nghĩ… Chẳng lẽ mình duyệt cấp cho cơ quan này, xí nghiệp nọ, nhà máy kia hết lô đất to, đén thửa đất nhỏ để họ sản xuất khinh doanh; xây nhà chia chác cho nhau mình không được họ đãi một bữa chén vào cái mồm cá ngão này ư? Vô lý bỏ xừ! Không riêng gì Ðông chợt nghĩ ra điều ấy, mà dưới các phòng ban, đám quân sư mũi trâu, mắt cáo đã nghĩ “hộ” Ðông rồi. Họ nghĩ trước từ lâu, mối lái giúp Ðông đã từ lâu. Cái đám phòng ban dưới quyền Đông, trong huyết quản anh nào chẳng có sẵn dòng máu xôi thịt chốn sân đình tiềm ẩn, tiềm tàng từ tổ tông truyền lại. Chỉ chờ có đất, có chất xúc tác là dao thớt vung bật dậy hành nghề băm chặt chí chát. Ðông không việc gì phải động não cho mệt, nghỉ cho khoẻ để còn ký cái phốc một nhát, mặc đám quân sư mõm bò, mũi cày mũi cáo kia đánh hơi, tìm cách lo hậu tình việc ký duyệt của Ðông.

- Anh ơi, thủ trưởng Ðông của chúng em đang duyệt dự án cấp khu đất Mả Vẻ để xây nhà tập thể cho cán bộ, công nhân cơ quan anh rồi đấy.

- Tốt quá! Cảm ơn anh Ðông và các cậu đã giúp cơ quan mình.

- Nhưng anh ạ, thủ trưởng Ðông có cậu con trai cả, cưới vợ ba năm rồi mà vẫn phải ở chung cùng bố mẹ chật chội bí rì về chỗ ăn chỗ ở quá. Em muốn đề đạt bên các anh giúp đỡ cháu.

- Con trai anh Ðông đi làm ở đâu chưa?

- Dạ, cháu đang làm bảo vệ tại cơ quan chúng em.

- Con anh Ðông sao các cậu lại để cho cháu làm bảo vệ?

- Vì trình độ văn hoá của cháu thấp, nghiệp vụ lại không có gì. Anh biết đấy. Sở chúng em toàn kỹ sư cả. Người không có chuyên môn chẳng làm bảo vệ thì làm gì hả anh?

- Thì anh Ðông của các cậu có bằng cấp quái gì đâu nào. Hồi ở đội biệt động với chúng tớ còn mù chữ ấy chứ. Tớ bổ túc Bình Dân Học Vụ mãi cho mới hết được lớp 4. Ðược cái tợn tay chém vát mã tấu bay đầu ba thằng tề ngụy mà có cả một ba lô thành tích tiêu diệt quân thù để hoà bình lập lại đi học trường Bổ túc công nông Giáp Bát? Quả đất quay tròn, giờ mình phải luỵ anh Ðông nhà các cậu!

- Giờ anh Ðông chúng em lãnh đạo một sở!

- Thôi không nói chuyện cũ nữa, về bảo anh Ðông làm thủ tục chuyển cơ quan con anh ấy sang chỗ chúng tớ, về làm bảo vệ cơ quan chúng tớ, khi xây nhà tập thể xong chúng tớ phân cho cậu ấy một tiêu chuẩn mới hợp lý, chứ đem phân nhà cho người khác cơ quan anh em họ thắc mắc, không được đâu.

- Thưa anh, chuyện đó dễ ợt, bọn em lo trong hai ngày xong béng!

Cứ theo kịch bản tương tự thế, tuần tự các người con của Ðông được đám thuộc hạ dưới trướng “tham mưu”, chạy vạy lo đủ mỗi người một căn hộ tươm tất giữa thời gạo châu củi quế, thế kỷ 20 gọi là: “Thắt lưng buộc bụng”...

Người con này của Ðông được đám nhân viên đem nhập nhờ hộ khẩu vào một gia đình quen biết ở khu dân cư sắp sửa giải phóng mặt bằng để mở đường. Nhập vào, tách riêng hộ khẩu ra để khi nhà nước thu hồi đất là được thêm một xuất đất đền bù dễ ợt. Người con khác được ở nhờ căn nhà cũ của một cán bộ vừa được đề bạt lên chức to hơn chuyển đến nhà công vụ to hơn, đẹp hơn, sang hơn theo chức vụ. Người thì nhảy dù vào đám đất đầu thừa đuôi thẹo cạnh một cơ quan đang xây dựng… hợp lý, mĩ mãn nhất còn gì! Xuống Âm phủ Ðông vẫn theo thói cũ, lo xa, dự trữ nhà cho con cái như lúc trên trần gian ngày xửa ngày xưa ấy!

Cõi trần gian… cõi trần gian… cõi tục, cõi tham, cõi phàm… Cõi… điêu toa giả dối!

                                    

 

                              Phần 1

                          Cõi âm (25)

 

Huệ, Mít và tôi đang loanh quanh giữa xóm liều tìm lối ra thì nghe xa xa tiếng “đàn bầu” tưng tưng… tửng tửng… từng từng… tưng tưng… lúc gần lúc xa vẳng lại, to dần như vả vào hai lỗ tai liền tù tì. Thấy lạ, tôi hỏi bâng quơ:

- Họ đánh đàn kiểu gì thế nhỉ?

- Không phải tiếng đàn đâu! - Mít trả lời.

- Có tiếng đàn đấy thôi! - Tôi thắc mắc.

- Anh nhầm, tiếng bật bông đây! - Mít giải thích.

Huệ bảo tôi:

- Tính anh Phong tò mò nhỉ? Người này anh biết đấy, thích thì đến thăm ông ta một lát đi, bọn em chờ!

Nghe Huệ nói thế, tôi nghĩ: “Người lạ mình còn gặp, hỏi chuyện được, người quen sao lại không. Ðể xem người này có gì mới, có gì hay hơn vài người tôi đã gặp trước đó!”. Ðầu nghĩ, chân tôi bước thẳng tới nơi tiếng “đàn” phát ra. Đứng ngoài cửa ngó vào, tôi thấy một người đàn ông hom hem đang tay giữ cái cần bật bông, tay cầm thanh gỗ gõ đều đều vào sợi dây, có lẽ là dây thép. Nhìn kỹ, hoá ra người này tôi quen thật, người cùng phố với tôi ngày xưa. Ông ta chuyên sản xuất chăn bông tiết kiệm và gia công chăn bông cho mậu dịch hồi ông ta còn trên cõi trần gian.

Mít bảo:

- Cứ khi nào nhớ nhà, nhớ nghề ông ta lại đem cần bật bông ra bật thế!

Về nhân vật này có nhiều chuyện khá thú vị. Xin kể:

Ngồi trong buồng vệ sinh để giải quyết bầu “tâm sự”. Cầm tờ báo trong tay lão mở đọc chơi chơi. Lão thường đọc báo vào những lúc như thế, lúc khác gì ra thời gian cho lão đọc sách, đọc báo. Mà lão cần quái gì để người ta phi ngựa vào đầu. Ðầu lão làm gì còn chỗ nào trống mà thiên hạ hòng nhét chữ nhồi văn. Ngăn nào ngăn ấy trong não bộ của lão chả đầy ắp những kiện bông nõn Liên Xô, Trung Quốc, Ấn Độ… của xí nghiệp chăn bông chở đến cho tổ hợp tác (ma) của lão làm gia công. Lão cứ việc đem bán số bông chính phẩm cho các cơ sở dệt vải, dệt khăn mặt lấy tiền tậu đất xây nhà, đến hạn trả hàng lão đi mua gom sợi rối, vải vụn của các nhà máy may, chăn bông cũ, thậm chí cả quần áo cũ đem nhét vào máy cào, lão cào thành bông tái sinh chần thành chăn thành phẩm trả cho xí nghiệp, đã có lần vải màn thưa bao mấy lớp bên ngoài là che được mắt thượng đế! Mà thượng đế thì toàn con dân hiền lành bảo sao nghe vậy, bán cho cái gì ăn cái ấy, phân phối thứ gì mặc thứ ấy, chia vật gì mua dùng vật ấy, đố đứa nào dám cãi, dám kêu ca, dám phản đối. Hễ kêu ca, hễ cãi là mất xuất, thiệt thân. Ấy là thời “Thứ gì cũng phân, mà phân như cứt”(6).

- “Ði làm cùng cơ quan với người ta, người ta được mua phân phối chăn, màn nhà mình sao lại không? Hay mua rồi đem bán cho con phe lấy tiền chênh lệch lập quỹ đen tiêu riêng chứ gì?”. Ối giời ơi! Mùa đông này mẹ con tôi chết rét mất thôi!...”

Ấy là những lời chì chiết của mấy bà vợ bị mất phần chăn, phần màn phân phối ở nơi làm việc của chồng thời ấy - thời bao cấp.

Trong ruột chăn thì bông gì chẳng là bông. Bụng đói, cật rét thì nhét củ sắn, lát khoai, dong riềng, thậm chí nhét củ chuối vô dạ dày cho no nữa là... Ngày đông tháng giá nằm ổ rơm còn ấm nữa là... Con dân nước Nam truyền đời chịu đói, chịu rét, chịu khổ từ trong trứng chịu ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay nên ai muốn đè thì cứ việc trèo lên mà đè, ai muốn cưỡi cứ việc nhẩy lên lưng họ mà cưỡi… vô tư đi!

Trời xui đất mách thế nào lão mở tờ báo để xem, lại trúng phóc trang báo có bài dạy cách tính tuần trăng, con nước, năm, tháng, ngày, giờ kết hợp âm dương, ngũ hành sẽ đẻ ra con thần đồng. Chẳng hiểu tác giả bài báo copy từ nguồn thông tin lá bắp cải già của nước cha căng chú kiết nào đem xào xáo ra đại ý thế này: “Ðàn ông tuổi 60 -70 phối hôn” với phụ nữ 25 – 30 tuổi sẽ sinh con cái thông minh và có thể trở thành Hoàng đế tài giỏi như Ðại đế Pi e, kém tí ti cũng bằng nhân tài Nít (vì không đeo kính lão thị nên lão đọc nhầm thành đại đế Phe, nhân tài Hít). Mớ thông tin ấy làm lão sướng rơn, sướng đê mê cả người. Lão vội tống khứ vài kiện bông ra khỏi một ngăn não bộ, vơ nhanh mẩu tin trên nhét vào thế chỗ để lưu và nhớ, để làm theo.

Của cải, tiền, vàng, đô la lão đâu thiếu. Lão chỉ thiếu những đứa con có học thức, thiếu cái sự nổi tiếng, thiếu cái danh cái giá để đời; thiếu cái tiếng thơm lây có được từ con cái. Những đứa con trước của lão học hành toàn phá ngang, bỏ dở, chẳng đứa nào học qua nổi lớp 7. Vì chúng trông thấy ông bố có cả một đống của cải lù lù ra đấy, chúng cần gì phải học nhiều cho mệt thân, nọc xác! Ðời lão thì chịu đứt đuôi con nòng nọc cái việc học hành thi cử rắc rối lôi thôi của thiên hạ rồi, lão có muốn học cũng chịu, lão xin hàng! Bốn cái nhà to vật vã toạ lạc trên bốn con phố trung tâm đất vàng, chỉ việc với tay tiền.

Ôi! Nhưng lão già mất rồi, bữa nhai được bao nhiêu đâu. Hai hàm răng cái thò cái thụt, chen cá lành cái giả nhai thứ gì răn rắn là phải nhờ cái nồi áp suất hỗ trợ nên ăn chẳng mấy thú vị. Ngày xưa, năm mười bảy tuổi lão sai lầm nghe theo bố mẹ lấy vợ hơn tuổi. Lấy vợ để có người làm ruộng. Giờ mụ ta già khú đế, răng giả hơn lão hai hàm. - “Mẹ kiếp, mai đưa mụ già ra toà ly dị luôn. Mụ còn vị quái gì để lão phải chung thân. Tất tật đều khô như ngói đâm, tình củ lẫn cái tình tình đều khô như ngói đâm, làm lão cứ phải gân cổ phì phào hát Karaôkê với lũ tiếp viên nhà hàng tháng vài bận. Từ mai chẳng phí tiền phì phào hát với lũ mắt xanh mỏ đỏ nữa. Ly mụ giả hai hàm xong lão sẽ lấy một cô vợ trẻ để nàng đẻ cho lão một thiên tài!”.

Nghĩ sao lão làm vậy. Nhà đang nuôi sẵn thị Hẹn, người giúp việc.

- “Ư, đúng rồi, quên béng đi mất, cứ phải đi tìm mãi đâu đâu cho tốn công, tốn của, tốn sức”.

Thị Hẹn không bén mắt cánh trai trẻ nhưng với lão thì... gái đứng đường còn ôm hôn chun chút cũng có sao đâu... miễn là thị còn trẻ, còn đẻ ra con cho lão.

Lão chia tài sản rất chi sòng phẳng. Ba cái nhà, một cho mụ giả hai hàm, một cho vợ chồng thằng cả, người con gái khi lấy chồng lão đã của hồi môn cho tiền, vàng làm vốn đầy đủ rồi. Cái nhà còn lại, lẽ đương nhiên là của lão. Chia sòng phẳng thế toà án nào chả tán thành ngay cho lão ly dị.

Chẳng biết thời đi hát Karaokê có em mắt xanh mỏ đỏ nào bung cái tọ với lão không? Còn Thị Hẹn mau bụng mau dạ đáo để. Ở với lão chưa đầy ba tháng đã mắt trợn, tay chẹn cổ ậm oẹ nôn khan, nhai khế chua, sấu xanh cả quả giòn rau ráu. Dải rút quần thay mấy lần vẫn bị ngắn vì cái bụng của thị cứ phình phĩnh lên như một quả đồi trên miền Trung du đang giai đoạn mọc thêm.

 

----------------------------------

(6): Vế đối của nhà thơ Thanh Tịnh.

 

 

                            Phần 1

                          Cõi âm (26)

 

Trúng quả to, phen này ta trúng quả to, dòng họ Móc nhà ta phen này trúng quả to. Ðược đại đế Pe là cái chắc; cùng lắm, non non chút xíu cũng bằng thiên tài Hít - trật đằng trời. – “Không cho chúng nó thoát, còn đường nào cho chúng nó thoát... chúng bay vào không có đường ra…”. Từ tầng một lão leo lên tầng hai, lên tầng hai lão leo tầng ba, từ tầng ba lại ba lăng xăng xuống tầng một. Chân leo, miệng hát đi hát lại lời bài hát trên như bọn trẻ hát đồng dao bài “con kiến mày leo cành đa, leo phải cành cộc...”.

Ngày mới đến ở giúp việc nhà lão, Thị Hẹn trông chán như cơm nếp nát. Thịt nạc thịt mỡ sơ tán từ hồi kháng chiến chhongs Tây chưa chịu hồi cư về phố cũ. Hàm răng trên trèo ra chõ xuống cãi nhau với cái môi cá mè suốt ngày đêm không ngủ nghỉ. Hai con mắt lờ đờ mắt cá vàng chẳng ra lồi cũng nỏ phải trố; chẳng ra mắt ốc nhồi, không ra mắt lợn luộc nên khó định chính xác đó là loại mắt gì. Mà tả vẽ vòng vo mãi cũng đến vậy, toạc móng heo kinh tế cho dễ hiểu. Thị chẳng khác gì Thị Nở, người tình của Chí Phèo làng vũ Ðại. Vậy mà…từ ngày lấy được lão nhà giàu, Thị phổng phao, phốp pháp phây phẩy, đẹp nõn nà (ấy là theo bình luận của mấy bà chuyên buôn dưa lê cùng phố). Cái răng cái mắt vô duyên ngày nào theo Thị Nở về quê làng Vũ Ðại ngay tắp lự. Giờ thị là Thị Hẹn đẫy đà, mặt ninh ních mỡ, tay chân, mông, đùi, người ninh ních thịt. Thị nói thiên hạ nghe, Thị đe thiên hạ hoảng. Thị giàu có vênh vang trước kẻ làm thuê; kẻ coi tiền là tiên là Phật luôn nể trọng Thị. Thị cưỡi con xe Đờ rem hai (DeremII) Thái gốc Nhật mới khự lượn lờ hết phố trên, phố dưới. Những kẻ khinh rẻ Thị ngày xưa giờ đứng bên hè phố lác xếch hai mắt ngó theo há hốc mồm hít khói xăng của Thị tất tần tật.

Lúc chưa lấy Thị, chẳng mấy khi lão vào “thăm” các bác sĩ khoa nội, khoa ngoại, lão chỉ năng đến thăm bác sĩ khoa da liễu, nhờ họ tiêm cho vài lọ kháng sinh liều cao để chữa viêm những “đoạn” đường tiết niệu bị lây nhiễm do gái đứng đường tặng. Từ khi ham đẻ con thiên tài lão đến thăm đủ loại bác sĩ. Nhiều nhất vẫn là bác sĩ chuyên chữa cái... sự cố trên bảo dưới không chịu phục tùng. Ðông trùng hạ thảo của Tàu, sâu chít Ðiện Biên, cá ngựa đôi một, đôi một ngâm với bát vị thuốc bắc, thuốc bổ, cà dê bình nào cũng năm bảy lít rượu sánh như mật ong. Thuốc tráng dương Viagra Mỹ đắt mấy lão cũng tầm mua bằng được để tăng cường cho cái khoản... cần tăng cường! Đơn thuốc dặn tối uống một viên, lão nuốt hai; hăng tiết sơn dương lên lão nhai ba. Uống thế cho đủ trường lực. Trường lực càng mạnh bao nhiêu buồng gan càng quá tải bấy nhiêu. Buồng gan luôn phải làm việc quá sức với những bình rượu sâu bọ, rắn rết thì gì gan chẳng bị xơ, bị ung. Gì mà ông bà ông vải dòng họ móc nhà lão chẳng đòi lão về chầu sớm. Lão ra đi để lại cho mẹ con thị Hẹn món gia tài cũng khơ khớ. Cái nhà ba tầng toạ lạc trên thửa đất gần 200 mét vuông, cùng những tiện nghi đầy đủ cho sinh hoạt một gia đình loại trung lưu. Trắng phớ ra cho tỏ ngọn đèn dầu: Thị là kẻ đẻ thuê, nuôi con thuê cho lão.

Ước mơ của lão tuy thành mà không tới được sự thật. Thằng cu càng lớn càng nhìn thấy cái sự tan. Vì lão khôn nhưng không tinh. Những kẻ giầu có thường hợm của hợm đời. Tưởng nhiều của lắm tiền là mua được mọi thứ trên đời. Mua được cả thần đồng, mua được cả năng khiếu và nhân tài…? Quên đi cho nhanh! Thần đồng nào đầu thai vào xứ ngu si dốt nát? Cho dù thần đồng có đầu thai nhầm cửa mà đem giao cho kẻ dốt nát, kẻ mở miệng là văng tục, chửi bậy trông nom, dạy dỗ thì thần đồng ấy càng dốt nát thêm.

Quả nhiên thế.

Mới mười sáu tuổi “thiên tài” của lão đã lớ phớ nổi rõ tính phóng túng lang bang. Học không chịu học, sáng cắp cặp đến trường muộn nói dối thày rằng hôm nay em đau bụng. Trưa về nhà nói dối mẹ con phải học thêm! Ăn quà vặt như mỏ khoét. Quán xá nào cũng lê la, trên môi lúc nào cũng phì phèo điếu thuốc lá cho thêm sành điệu. Nhạt miệng thì nhấm nháp chén rượu quán nước cho nhanh chóng thành đấng nam tử phấp phới cờ bay, lúc mỏi chân buồn tay thì hít thử tí khói trắng cho biết mùi đời.

Ðại đế Pe của lão lên ngôi trị vì thiên hạ rất chi oai phong đà điệu, lúc nào “Ngài” cũng ngự trên chín tầng khói trắng lâng lâng, đi mây về gió lẩy bẩy liêu xiêu. Ôi thiên tài của lão trưởng giả tân thời… thật thiên tài… ai tai!

 

 

                             

                             Phần 1

                          Cõi âm (27)

 

Hai bên dàn trận chiến giữa một bãi trống. Một đội quân quần áo Tô Châu, một đội quân rằn ri, trên tay người nào cũng gậy, cũng kiếm. Chủ yếu là họ gân cổ cái nhau là chính. Bên quần áo rằn ri mắng bên quần áo Tô Châu chơi không đẹp, không quân tử, đánh nhau lối du kích, đang đêm mò vào đánh trộm, chiến thắng kiều đánh trộm không vinh dự, không quân tử. Bên quần áo Tô Châu mắng lại bên quần áo rằn ri là đồ bán nước, đồ theo giặc, đồ cõng rắn cắn gả nhà, không có chính nghĩa thì thua trận là phải, kêu ca oán thán nỗi gì. Bên quần áo răn ri đòi đánh lại trận đường Chín - Nam Lào, trận Buôn Mê Thuột. Bên quần áo Tô Châu đòi đánh nhau lại trận chiến mùa xuân năm 1968. Không bên nào chịu kém lời, kém cạnh việc tay giơ nắm đấm lên hậm hoẹ doạ nạt nhau.

Huệ bảo họ cãi nhau vã kiểu này thường xuyên, hết gậy gộc đến dao kiếm xông vào quần nhau như bãi chiến trường thời trung cổ, chán lại chia ra đôi một vật tay, đôi một đấu võ Tàu, võ ta, võ Nhật, võ Nam Hàn đem ra thi thố đối chọi cùng nhau. Diêm Vương nhiều lần can ngăn, hoà giải không được phải mời tới chính trị gia các nước trung lập đến thuyết phục vẫn mưa đổ lá khoai, nước giội đầu vịt. Tất cả đều do cái tính ương bướng cha truyền con nối kiểu hiếu thắng dở hơi, lúc nào cũng muốn dành phần thắng về mình, muốn hơn người từ chiếc cravat đến đôi giày, đôi bí tất màu xỏ trong giày! Kém tắm khó chịu mà lại!

Thấy tôi chăm chú xem đám đồng chủng cãi, mắng nhau hơi lâu, Huệ lôi tay tôi đi và nói:

- Lịch sử qua rồi, lịch sử không lặp lại, lịch sử cũng không cho phép ai bày trận đánh nhau lại ở bất cứ trận chiến nào trên thế giới này. Một khi đã thua, cứ việc làm con ma thua trận cho yên mồ, đừng cay cú cày sới lại chuyện cũ, cũng đừng chén tặc chén thù nhấm nháp mãi ba cái chiến thắng xương rơi máu chảy, mẹ mất con vợ mất chồng để “Gia tài của mẹ” chỉ là “một rừng xương khô, một núi đầy mồ” (lời nhạc, Trịnh Công Sơn), tổng kết rùm beng này nọ ra vẻ khoái trá, ra điều đắc thắng! Em cảm thấy buồn nôn khi xem phim ảnh, chiếu chụp những cảnh tướng lĩnh đứng trên khán đài, trước hàng quân ưỡn ngực khoe những tấm huân chương kim loại vàng choé để kích thích thế hệ trẻ ra trận lập công bằng cách giết thật nhiều đồng loại. Em ghê tởm những cái tên: Ðồi thịt băm, thung lũng nướng chả, cao điểm cối xay thịt. Em dị ứng với những gì người ta ca ngợi, người ta ghi vào sử sách thế giới những địa danh: Xích Bích, Oa-téc-lô (Waterlo), Véc- Ðun (Verdun), Trân Châu Cảng... Nghe nhắc đến những địa danh đẫm máu ấy là hiện ra trước mắt em những đống xương người đầu lâu xương ống, hiện ra một “Mã Chiếm Sơn buông cương mà ngẫm nghĩ / Ngựa rung bờm hý lạnh giữa tàn quân”(7). Dù hiểu theo góc độ tích cực đến mấy đi nữa thì chiến tranh vẫn là tàn bạo là đau thương, là không cần có trước nhân loại tiến bộ. 83 vạn quân Tào Tháo bị dìm xuống lòng sông Trường Giang (trận Xích Bích); 60 vạn quân Napoléon bị giết trong trận Oa- téc tô. 18 hạm đội, tàu sân bay, 232 báy bay, 2.435 binh lính Mỹ chết (trận Trân Châu Cảng). Xem đó là chiến tích oanh liệt của một ai đó thì thật là dã man, thiếu tình nhân loại. Nhân loại yêu hoà bình nghĩ gì việc 20 triệu người chết trong thế chiến lần thứ nhất, gần 40 triệu người chết trong đại chiến thứ 2 thế kỷ XX? Sinh mạng con người do những người mẹ mang nặng đẻ đau sinh ra, đâu phải cỏ rác mà đem huỷ hoại, giết chóc lẫn nhau không ghê tay như thế được. Các chính khách nước lớn, nước bé nghĩ gì năm mươi năm qua: từ 1950 đến năm 2000 loài người chỉ có 7 ngày được sống yên ổn trong hoà bình. Còn lại, không nước này, cũng quốc gia kia đem máy bay, xe tăng, đại bác đi giết người. Biến thành ma cả rồi mà lúc nào cũng thích thú gậm nhấm cục xương chiến thắng. Mà bận gì đến cái lũ binh nhất, binh nhì, hạ sĩ quan đầu binh cuối cán ấy. Dù cho cái bọn dốt nát ấy có theo một tên trùm đế quốc, trùm phát xít chinh phục được cả thế giới này thì cái thớ bia thịt ấy có thoát được hòn tên mũi đạn cũng chỉ làm lính hầu, lính canh cửa suốt đời cho giới chính khách mà thôi, anh hùng anh bá gì những ngữ ấy. Chiến tranh, xâm chiếm lãnh thổ của nhau chẳng đem lợi lộc gì cho dân nghèo lương thiện. Từ khi có mặt loài người, trái đất này đã bể máu, núi xương, nước mắt của những người mẹ, người vợ đã chảy ngập tràn mặt đất vì những cuộc chiến tranh tranh dành lãnh thổ, huynh đệ tương tàn. Loài người ngày nay đã có những thành tựu về khoa học & kỹ thuật vượt bậc có thể tạo ra của cải vật chất để phục vụ đời sống, tinh thần cho mình. Chẳng chịu bảo nhau làm ăn trong hoà bình yên ổn, lúc nào cũng thích đào chiến hào, xây thành đắp luỹ để đánh nhau. Ðang là thiên niên kỷ thứ ba rồi, đâu thời ăn hang ở lỗ, thời tranh giành nhau mảnh da thú, khu rừng nhiều hoa quả để tồn tại cho riêng bộ lạc mình. Hết sản xuất ra đạn trái phá tầm xa, tầm gần, bom trùm, pháo chụp, mìn cóc, mìn định hướng; lúc nào cũng chỉ thích bóp cò súng, bấm nút hạt nhân để Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” (Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)!                                            

---------------------------

(7). Thơ Tố Hữu

 

 

 

 

 

 

                                Phần 1

                            Cõi âm (28)

 

Con người là giống tồi tệ nhất, đối xử với nhau quái đản nhất. Vừa độc ác vừa dã man, nghĩ ra đủ những thứ cực hình ghê tởm: Nào bẻ răng, rút lưỡi, xẻo thịt, khoét mắt để hành hạ, làm tình làm tội nhau. Nghĩ ra đủ trò chơi bạo lực quái gở để thi thố với nhau trên sàn đấu. Mượn cớ thi đấu thể thao để đấm bôm bốp vào mắt nhau như trò đấm bốc (quyền Anh) để mua vui cho đám người lắm của nhiều tiền, để đoạt huy chương vàng, huy chương bạc nhặng xị hòng nổi danh nổi tiếng trên sinh mạng con người một cách tàn nhẫn. Thiếu gì những trò chơi lành mạnh không chơi, toàn chơi những trò ác. Em đọc lại cho anh Phong nghe một đoạn viết trong bài báo mới đây trên cõi trần gian của anh nhé: “Trong lịch sử quyền Anh nhà nghề, đã nhiều người hùng cơ bắp trên sàn đấu phải ngã xuống vì những chấn thương nghiêm trọng. Theo con số thông kê từ Hãng thông tin Spokesman - Revew (Mỹ), từ năm 1920 đến nay (2006), đã có gần 900 võ sĩ nhà nghề vĩnh viễn ra đi vì những chấn thương nặng từ các cú đấm trên võ đài” (An ninh Thế giới số 541 ngày 5/4/06). Từ năm 1920 đến năm 2006 tính ra là 86 năm, mỗi năm trên 10 võ sĩ bỏ mạng trên sàn đấu. Ðàn ông thi thố trò quyền cước đấm đánh nhau toạc mặt, rách môi thấy đủ là dã man, họ còn đưa cả phụ nữ chân yếu tay mềm lên sàn đấu để chị em đấm găng thùm thụp vào mặt nhau máu mồm máu mũi chảy đỏ lòm để họ ngồi xem, ngồi cổ vũ lấy được? Xét cho cùng, con người là giống máu lạnh nhất. Có máu lạnh mới đủ can đảm ngồi xem, cổ vũ những trò thi đấu dã man ấy?

Cũng lạ cho cái giống người, lời nói chẳng bao giờ đi đôi với việc làm, lúc nào cũng hô hào tự do, nhân quyền, bình đẳng, bác ái. Mồm thì leo lẻo về đạo đức này nọ, nhưng khi không vừa ý ngang nhiên đem xe tăng dàn hàng ngang đè nát cả biển người dưới xích sắt! Vẫn ra vẻ ta đây kẻ giờ rằng: Giầu tính nhân quần, bác ái. Bác ái gì mà đi đóng những bộ phim kiểu như phim Nàng Ðê Chang Kưm, toàn thấy hạ thấp nhân phẩm con người, xem cứ tức anh ách. Ðồng ý rằng dựng lại những câu chuyện ác, chuyện buồn đau của quá khứ để nhân loại xem lại, nhìn lại quá khứ mà bảo nhau sống nhân hậu với nhau hơn; nhưng những kẻ đầu óc lùn, kẻ tà tâm đâu hiểu như thế, chúng xem để học theo, rút kinh nhiệm, để làm ác hơn, coi mạng sống của con người rẻ mạt hơn, cướp của giết người, xoá dấu vết tinh vi hơn…

Huệ tiếp tục đưa tôi đến một nơi giống như chuồng cọp, người da đen ở một ngăn, người da trắng một ngăn, hàng trăm cánh tay thò qua song sắt giơ nắm đấm, miệng xì xồ chửi rủa nhau, đe doạ nhau. Nào: “Chúng ông muốn lên thiên đàng mày lại đưa chúng ông xuống địa ngục ở cái đất nước toàn rừng rậm, chi chít sông ngòi, hầm chông, bẫy đá, đến cả con ong cũng là vũ khí đánh nhau. Mang tiếng là nước có nền văn minh công nghiệp, có nền văn hoá nhân văn nhất thế giới mà chỉ thích đi xâm lược, đi chiếm cứ đất đai người khác. Ðồ dã man, đồ phản Chúa”.

Phía người da trắng không chịu kém cạnh, cố kiễng hai bàn chân cho người cao hơn, tay chống nạnh, tay xỉa xói, chửi lại:

- Bọn bay là quân mọi rợ, quân nô lệ, quân ngu như lợn, quân tham tiền, tự nguyện xung vào đội quân Lê dương đi đánh nhau thuê thì chúng mày chết mất xác là phải, còn già mồm nỗi gì?

Ở chốn trần gian họ mạnh mẽ, đạo mạo, ra dáng đấng nam nhi có chí khí bao nhiều, xuống địa ngục với cái phần hồn yếu ớt họ trở nên thiên kiến cố chấp, chấp nhặt một cách vô lối từng li từng tí với nhau trong tranh luận, trong sinh hoạt, đến nỗi ngay Diêm vương là vua của sự kiên trì cũng không chịu nổi, phải xây riêng chuồng cọp để giam riêng từng giống người, từng nước, từng màu da mà vẫn chưa được yên với họ. Ngày cũng như đêm, ngủ thì chớ, thức dậy là cãi nhau, bắt đền nhau những chuyện không do chính họ gây đau khổ cho nhau. Kẻ gây đau khổ cho họ, là bọn quan to, tướng lớn. Lũ người ấy bị tử trận, hay chết già họ vẫn được ưu tiên lên thiên đường trước, vì bàn tay họ “sạch”, không trực tiếp giết người. Họ không bị đầy xuống địa ngục, bị quỷ sứ tra khảo như đám lính trực tiếp cầm khí giới đâm chém, bắn giết người, bắn giết dân lành để cướp đất đai, cướp bạc vàng châu báu, bắt những quốc gia nhỏ yếu, bại trận phải tâm phục khẩu phục, phải hàng năm cống nạp sản vật quý của quốc gia cho những kẻ chiến thắng.

Tôi tiến sát đến hàng song sắt để nói chuyện với một lính Bắc Phi. Vừa thấy tôi người lính Bắc Phi già đã sấn sát ra hỏi:

- Việt Nam hả? - Tôi chưa kịp trả lời thì ông ta đã - Việt Nam tốt lắm. Việt Nam đánh cho Pháp, Mỹ thua bét tĩ lòi dom.

Tôi hỏi anh ta:

- Bạn là người nước nào?

Giọng ông ta uốn lưỡi nghe rất tự hào:

- Angiêri, Angiêri.

Tôi lại hỏi:

- Ông chết ở trận nào?

Trả lời:

- Tôi không chết trận. Tôi là người Việt Nam mới. Tôi bị người ta bắt lính đưa sang Ðông Dương đánh nhau. Tôi chạy ngay sang hàng ngũ Việt Minh làm lính cụ Hồ. Tôi lấy vợ Việt Nam, đẻ con với vợ Việt Nam, hoà bình tôi đem vợ con về Angiêri sinh sống, tôi chết do vết thương cũ thời chiến tranh tái phát hủy hoại sức khỏe của tôi.

- Các ông giơ nắm đấm cãi nhau thế để làm gì?

Ông ta liền quay sang phía trại lính da trắng giơ tay xỉa xói tiếp:

- Tôi ghét người Pháp, tôi ghét người Mỹ. Xâm lược là không tốt. Việt Nam tốt, Cụ Hồ tốt tốt…

Thấy ông ta hào hứng quá tôi vội giơ tay làm dấu hiệu chào để đi. Ðúng lúc ấy Huệ cũng vẫy vẫy tôi. Tôi đi giật lùi về phía Huệ. Huệ cầm tay tôi lôi đi xềnh xệch, bảo:

- Ngó qua loa thôi, nơi nào anh cũng nói chuyện, có mà cả năm không hết chuyện. Còn rất nhiều nơi cho anh cần xem, cần biết. Ði thôi.

 

                    

                                   Phần 1

                                Cõi âm (29)

 

Huệ dẫn tôi đến một nơi khác.

Nơi đây khá yên tĩnh, giống một khu an dưỡng trên trần gian, Huệ nói đây là khu dành cho tầng giới trung lưu. Từng dãy nhà mái bằng một tầng trông xa như những hộp container dài ngoẵng xếp theo từng hàng, mỗi dãy được ngăn ra từng phòng riêng biệt như kiểu trại lính, có hè rộng, có sân chơi thể thao, vườn hoa cây cảnh trước cửa, sau nhà. Những người ở trong những dãy nhà này đều có chung một dáng co ro khúm núm, mắt trắng dã, môi thâm sì, kết hợp với cặp lông mày quỷ chụp xuống đôi mắt hí dị tướng. Có điều lạ là hai người chỉ có một cái ghế để ngồi xem chiếu phim, xem đấu bóng chuyền, xem đá bóng. Mà hai người không bao giờ chịu ngồi chung một ghế để cùng xem với nhau. Cứ đôi một người này hất người kia ra khỏi ghế để ngồi một mình. Người kia bị hất khỏi ghế lại vội vàng bò dậy tìm cách hất người này ra để chiếm lại ghế, không ai chịu nhường ai lấy một lần. Ban đầu tôi tưởng do nhàn rỗi quá nên họ đùa thế cho vui, cho bớt đi nỗi nhớ nhà, nhớ vợ nhớ con nơi trần thế. Nhưng không, ngoài sân thì người đá bóng cứ đá với nhau, người xem còn mải giành giật, co kéo giằng nhau cái ghế, chẳng ai để ý đến việc xem thi đấu thi đá, làm tôi sực nhớ câu thơ của Nguyễn Bảo Sinh: “Ghế thì ít đít thì nhiều/ Cho nên đấu đá là điều tất nhiêm”!

Có đám kéo cả nhà, cả họ, cả đồng hương xóm, đồng hương thôn, đồng hương xã, đồng hương huyện, thậm chí đồng hương tỉnh đến để giằng, co, kéo, tranh nhau một cái ghế ngồi. Người yếu thế thì về trần gian báo mộng cho vợ con gửi xuống cho xe hơi, nhà lầu, vàng nén, vàng thoi, đô la âm phủ để họ hối lộ Diêm Vương, để Diêm Vương dành ghế cho họ độc quyền ngồi một mình một ghế (ấy là nghe Huệ kể vậy). Người không có đông đồng hương các loại từ xóm đến tỉnh, thân nhân trên kia lại nghèo không có gì chu cấp xuống cho để hối lộ Diêm Vương, quỷ sứ, bị tranh mất ghế, ức quá bèn nghĩ ra mẹo bẩn. Đi dò la lý lịch, tiểu sử đời tư người mình ghét rồi làm đơn tố giác chuyện từ đầu mẩu cuối mấu của nhau: Nào sử dụng bằng cấp giả để thăng quan tiến chức, nào khai man thành tích kháng chiến để nhận huân chương, danh hiệu này nọ kia khác. Ông mượn bằng cấp 3 dùng hoá chất tẩy xóa rồi điền tên mình vào để học tại chức, học chuyên tu; bà mua bằng đại học giả để được đề bạt làm quan to. Họ bới tội nhau cho quỷ sứ, Diêm vương biết mà tra khảo đầy đọa người họ ghét cho bõ tức.

Diêm Vương ưu ái giành cho một khu ở riêng yên tĩnh với cơ sở vật chất hạng sang hơn người lao động chân tay, tưởng họ sẽ bằng lòng với sự ưu ái ấy. Nhưng không, những cái đầu đặc mưu mẹo của đám tiểu nông được nâng đời trí thức bằng mớ học vấn tích cóp theo kinh nghiệm do làm việc lâu năm mà có, vô tư thì ít, trục lợi thì nhiều, được voi họ lại muốn đòi tiên, muốn ăn gấp năm, muốn vơ gấp mười cho đầy túi tham. Công việc nhà nước, chẳng làm hôm nay thì ngày mai làm cũng xong, chả đi đâu mà vội. Thời gian làm việc họ để lập vây cánh, đấu đá, hất lật nhau. Ở trần gian họ tranh giành nhau cái ghế quyền lực ra sao, khi xuống cõi âm họ copy nguyên bản đem theo để tranh cái ghế ngồi xem bóng chuyền, bóng đá, xem văn nghệ, văn công... Diêm Vương xếp hai người ngồi chung một chiếc ghế để nhận rõ bản chất con người thực của họ, vừa để xem họ lộ sự ranh mãnh ra sao, cũng là để hành tội họ luôn. Họ đâu có biết!

 

                                    

                                 Phần 1
                              Cõi âm (30)


Ðánh nhoáng một cái chúng tôi lại đứng trước một thành phố chen chúc người đi bộ, xe đạp, xe máy, ôtô, thậm chí có cả người cưỡi ngựa, đi xe ngựa, đạp xích lô… Một thành phố táp nham phương tiện giao thông. Lòng đường mạnh ai nấy đi, hè phố ai thích thì người đó lấn chiếm làm cho trật tự đường phố úi xùi cẩm như một thành phố thiếu ông thị trưởng, thiếu cảnh sát giao thông, thiếu dân phòng bảo vệ, thiếu trật tự trị an.
- Thế kỷ 21 rồi mà thành phố này chẳng tiến bộ chút nào.
Nghe tôi nhận xét vu vơ thế, Huệ bảo:
- Nơi nào còn vua chúa thì nơi ấy kém văn minh cả!
Tôi bảo:
- Chưa hẳn thế! Âm phủ gì ra vua chúa?
Huệ bật lên một tràng cười khanh khách để chế giễu tôi, rồi nói:
- Có chứ! Vua Diêm Vương, các chúa ngục. Những mười ông Diêm vương cơ đấy. Mười ông mười ý mới chậm phát triển.
Bỗng một người cao lênh khênh, vận bộ đồ ký giả là thẳng tặp đường li, chân đi giầy mõm nhái, đầu đội mũ phớt đang như con lạc đà cõng trên lưng một chồng lớn báo chí, lặc lè vừa chân bước, miệng rao:
- Báo Ðịa Phủ hàng ngày, báo Ðịa Phủ cuối tuần, báo Ðịa Phủ Chủ Nhật số đặc biệt biếu không ơ ơ ơ…! Báo biếu ơ…! Báo biếu ơ…!!!
Có điều lạ, báo biếu không mà chẳng thấy người ra lấy về đọc, chỉ thỉnh thoảng một hai đứa trẻ chạy đến vơ vài tờ rồi chạy biến vào các ngõ ngách.
Thấy lạ, tôi hỏi Huệ:
- Người ta xuống đây bị quên hết chữ đã học hả em?
Huệ cười ngặt nghẹo, tay bịt lấy miệng rồi mà vẫn bật thành tiếng hơ hớ…hơ hớ… khơ khớ … khơ khớ:
- Không! Hơ hớ!... Quên sao được! Hơ hớ!... khơ khớ… Khơ khớ…!!!
- Sao bảo mọi linh hồn xuống dưới này khi qua sông Nại Hà là quên hết mọi khổ đau, vui sướng trên cõi trần gian?
- Bịa! Hơ hớ… Trần gian rỗi việc… hơ hớ… ngồi bịa ra lắm thứ chuyện! Hơ hớ!...
- Tôi hỏi thế có gì sai mà em cứ vừa nói vừa cười hơ hớ thì ai mà hiểu được. Thành phố đông đúc vậy mà không thấy ai mua báo, đọc báo?
Thôi hơ hớ, Huệ lại chuyển sang hi hí… hi hí:
- Ra gì…hi hí… thứ báo…hi hí.. xem đoạn đầu biết trước đoạn giữa, đọc đoạn giữa biết hết đoạn kết… hi hí… Toàn chuyện cướp, hiếp, đâm chém, giết chóc, tranh vợ cướp chồng, tham ô tham nhũng, lừa lọc; thậm chí cả chuyện chiếu giường, chăn gối trần trụi, tục tĩu, cả chuyện thủ ác diễn ra ở đâu đó cũng đem tấn cho đầy tờ báo. Thứ báo chí nói một phía, nghe một tai, tụng ca Diêm vương quỷ dữ, ai lấy đọc thì đọc còn lại bán cân làm giấy gói xôi, hoặc cho trẻ con lấy dán diều hi hí… Mục đích xuất bản báo của Diêm Vương chỉ để hành tội những kẻ có tội, những kẻ khi ở trần gian làm báo gian dối, đăng tin bịa chuyện; những kẻ lợi dụng việc làm báo để làm giàu bất chính, bất lương bằng tiền tài trợ của nhà nước, doạ đưa tin này tin nọ lên báo để tống tiền các doanh nghiệp lỡ sơ suất trong việc làm ăn…
- Sao không bắt hắn lăn đá ngược lên núi để chuộc tội (8) còn hơn in báo cho tốn giấy mực, tốn công sức, tốn tiền của - Tôi nói xen vào.
Huệ bảo:
- Quỹ nào phải dùng vào mục đích ấy, dùng sai sao được. Trần gian các anh chả như vậy ư? Quỹ thi đua thì đem in các loại giấy khen, bằng khen, mua tặng phẩm để thưởng cho người có thành tích; quỹ văn hoá dùng cho việc nâng cao văn hoá, in sách in báo ra mà phát mà biếu, không dùng hết, thừa lại cuối năm cũng bị “tài chính” thu về, phí của giời đi. Quy chế thế nên ngành nào cấp ấy đều tìm cách tiêu cho bằng hết số tiền quỹ của năm đó đi cho rồi. Mà không tiêu cũng thiệt! Không tiêu bằng hết còn bị coi là kém năng lực. Lãnh đạo yếu kém mới bị dư tiền, thừa tiền ra vậy! Vừa bị cấp trên thu hồi mất, còn bị mang tiếng là kém năng lực thì dại gì chẳng tìm cách mà tiêu cho hết nhẵn đi!
Cái gã gùi sọt báo đi phát không kia, khi ở trần gian là gã lưu manh giả danh trí thức. Ðược giao làm chủ bút một tờ báo, gã làm báo tin tức chả ra báo tin tức, báo văn chương chả ra văn chương, mượn báo để tô vẽ cho mình, ăn bớt ăn xén, ăn chặn cả vài chục nhuận bút của cộng tác viên, làm tiền các doanh nghiệp. Lâu lâu gã lại xới xáo tung biên chế toà soạn đem sắp xếp lại để “tống tiền” đồng nghiệp rất ba bị: Trưởng ban biên tập Văn hoá - Văn nghệ chuyển làm trưởng ban biên tập thời sự, người đang là phóng viên chuyển sang làm biên tập viên và ngược lại. Cứ thế mọi ban bệ hoán đổi vị trí cho nhau một cách trái khoáy, gây bỡ ngỡ trong công việc, nếu xảy ra sai sót lấy cớ đó ông ta chấm dứt hợp đồng lao động để tuyển dụng người mới. Người đi xin việc không thể bằng tờ đơn suông. Bát canh suông ăn còn nhạt thếch nữa là tờ đơn kèm bản lý lịch suông đi xin việc! Thỉnh thoảng chủ bút lại “mẹo” ra thế để cấp dưới phải răm rắp kéo nhau tới thăm sếp tại nhà riêng bằng… phong bì vậy!


                                         HXH
----------------------------------------
(8): Theo thần thoại Hy Lạp, người gây tội ở trần gian khi xuống địa ngục phải lăn đá ngược lên núi để chuộc tội.



                             

                               Phần 1

                           Cõi âm (31)

 

-Huệ kể anh Phong nghe chuyện này. Chính chuyện về gã chủ bút kia:

- Cả bốn trưởng ban của tờ báo ấy không hẹn mà một buổi tối cụng trán nhau trong nhà ông chủ bút cùng lúc. Người trước kẻ sau chỉ cách nhau vài phút, làm cho vị chủ bút hơi bị khó xử, bị lúng túng giây lát. May, bằng tính nhanh nhạy của cái đầu tổng biên tập, ông chủ bút mỉm một nụ cười niềm nở rồi đưa ra một câu hỏi gộp một:

- Các đồng nghiệp đến thăm tớ hả!

Trưởng ban trị sự gãi đầu gãi tai vẻ ấp úng trả lời:

- Không không… à vâng chúng em đến mừng cháu nội của anh chị đầy tháng tuổi ạ!

- Vợ chồng tớ, vợ chồng các cháu cúng Mụ cho cháu nội tớ cách đây tròn một tháng rồi, hôm ấy các cậu chả đến đông đủ mừng cháu tớ và uống rượu là gì.

Cũng bằng sự nhanh nhạy của cái đầu nhà báo, trưởng ban thời sự mau mắn đỡ lời cho cả bọn:

- Vâng thưa anh, hôm trước là ăn đầy tháng cháu, còn hôm nay chúng em đến để ăn… à chết em xin lỗi… chúng em đến để mừng cháu đầy… “đôi” tháng tuổi ạ!

- Ờ, quê các cậu có lệ làng cúng mụ đầy “đôi” tháng tuổi cho trẻ mới sinh à? Quê tớ không có lệ này. À mà thôi, các cậu đã đến mừng cháu tớ thì theo “lệ làng’ quê các cậu cũng hay. Mời các cậu ngồi đây để tớ đi mua thức nhắm về ăn mừng cháu tớ đầy “đôi” tháng tuổi nhé!

Rất hay! Có thêm tập tục nào hay tập tục ấy, càng phong phú thêm đời sống của chúng ta hôm nay. Văn hoá dân tộc ta càng đa dạng thêm hôm nay và sẽ giàu thêm cho ngày mai nữa!

Ông chủ bút dắt xe đi mua đồ nhắm, bốn trưởng ban thuộc cấp ngồi lại săn sóc ấm trà nhạt bã và phích nước sôi. Trưởng ban trị sự mở cặp lấy ra cỗ bài tú lơ khơ gạ ba đồng nghiệp chơi tá lả để giết thời gian… để cùng nhau đợi bữa chén!

Trưởng ban biên tập thời sự vội gạt đi:

- Bàn bạc cái con khỉ! Bàn là bàn việc hôm nay cống sếp thế nào đây?

Trưởng ban trị sự:

- Bàn bạc làm mẹ gì cho mệt? Cứ ai nấy “tuỳ nghi cúng tiến” như mọi bận!

Trưởng ban thời sự rút từ túi ra chiếc phong bì giơ lên hỏi ba trưởng ban khác:

- Các cậu định “cống” sếp lần này mỗi người bao nhiêu? Thống nhất đi, bỏ hết phong bì ra đây tớ kiểm tra, xem “ý tưởng” của chúng ta có gặp nhau không, và gặp nhau đến cấp độ tiên tiến nào? Xem thử nhá!

Nói xong, trưởng ban biên tập thời sự đặt chiếc phong bì chắc nịch của mình xuống bàn trước. Thấy thế, lần lượt trưởng ban trị sự, trưởng ban Văn hoá - văn nghệ, trưởng ban nông nghiệp, nhất loạt rút túi ra mỗi người một phong bì cũng chắc nịch tương tự, thậm chí có phong bì còn chắc nịch hơn do mệnh giá đồng tiền nhỏ, đưa cho trưởng ban thời sự kiểm tra.

Sau khi trưởng ban thời sự mở hé từng chiếc phong bì ngắm ngó, đếm kỹ phần lòng, phần ruột từng chiếc, bỗng cười phá lên:

- Thiên tài, thiên tài, bốn chúng ta bậc nhất thiên tài. Cái nào cũng đúng guýt năm triệu chẵn có ghê không. Hay thật!

Trưởng ban nông nghiệp ngồi thừ ra nghĩ ngợi một lúc, và… hiến kế:

- Các đồng chí ơi, ta bắt chước như đám học trò xưa Tết thầy đồ đi.

Ba cặp kính cận cùng dương lên đổ tròng về phía trưởng ban nông nghiệp hỏi dồn dập:

- Sao! - Sao! - Sao! Tết thày đồ xưa như nào?

- Trong kho tàng chuyện cổ tích... tiếu lâm ấy!

Ba cái miệng của ba trưởng ban cùng lúc tròn xoe đồng thanh ồ ồ ồ… một tiếng rõ dài rồi lại đồng thanh:

- Nhất trí! - Nhất trí! - Nhất trí!...

Trưởng ban nông nghiệp giải thích:

- Mỗi người năm triệu cho vào một phong bì có vẻ hơi ít. Nếu bốn người mỗi người hai triệu rưỡi bỏ chung một phong bì sếp không thể chê ít được. Nó những mười triệu kia mà!

Cả bọn người mừng rơn, vỗ đùi tự sướng, vỗ tay tán thưởng, vỗ bàn vỗ ghế tự khen:

- Sáng kiến, sáng kiến… Hay! Hay!... Thảo nào thiên hạ xưa nay cứ nức nở khen sự nhanh nhạy của cánh nhà báo chúng ta… quá đúng, thiên hạ tinh đời ha!

- Trưởng ban nông nghiệp có khác, luôn luôn biết cách tiết kiệm, biết cách hà tiện. Mà không hà tiện sao được, đồng tiền của cánh ta là mồ hôi nước mắt, cày cuốc rách trí rách não cho hết báo này, báo kia ghê lắm mới có chứ ăn không ăn hỏng được của thằng, con nào được. Hà tiện là quốc sách, anh em ơi! Hà tiện là quốc sách… quốc sách…!

Sau khi cơm no rượu say, trước khi ra về trưởng ban trị sự trịnh trọng hai tay nâng chiếc phong bì căng phồng ra trước mặt tổng biên tập:

- Thưa anh, bốn chúng em đến mừng cháu nội anh đầy “đôi” tháng tuổi. Anh chị cho bọn em ăn no, uống say rồi. Đây gọi là chúng em có tí chút làm vốn cho cháu, mong anh chị nhận cho… để bọn em vui!

Sếp của họ đáp lễ cũng rất trịnh trọng, bằng cả hai bàn tay đón chiếc phong bì căng phồng cười lên phe phé:

- Hé hé… hế hế… hề hề…! Cảm ơn, cảm ơn cậu trưởng ban trị sự nghĩ tới tương lai con em chúng ta, tớ xin nhận phần của cậu trưởng ban trị sự trước, còn ba cậu… ờ!!! Ba cậu còn lại nếu có lòng muốn ra vốn cho cháu nội tớ thì đưa tớ lúc nào cũng được, lên phòng tớ ở cơ quan là tiện nhất, khỏi phải đến nhà đi lại tối tăm khuya khoắt, xe cộ bây giờ đông lắm, bọn trẻ chúng phóng xe bạt mạng lắm, nhỡ va quệt, xảy tai nạn giao thông tớ đâm ân hận. Tính tớ không thích ân hận, chóng già người!

Trong ruột bốn trưởng ban buốt thon thót nhưng đành bấm bụng im lặng, ra về. Trưởng ban Nông nghiệp vừa đi vừa lủng bủng:

- Tiên nhân thằng Chí Phèo! Sếp chúng mình cũng thuộc tiếu lâm gớm!

Trưởng ban trị sự an ủi:

- Nhà báo, thằng nào chẳng thuộc tiếu lâm, thằng nhà báo nào chẳng mang gien Trạng Quỳnh, Xiển Ngộ, Ba Phi… Nhưng bỏ mẹ rồi ba đằng ấy ơi!

- Cái gì…

- Cái gì…

- Bỏ mẹ cái gì?

Trưởng ban trị sự giải thích:

- Sếp bảo phong bì ấy của mình tớ. Mình tớ mười triệu, còn các cậu nữa chứ?

Nói xong câu ấy, trưởng ban trị sự mặt nhăn nhó:

- Ừ nhỉ, bỏ mẹ chưa… chết cha Lão Hà Tiện chưa! Chúng mình khôn mà không ranh! Không ranh… ngu hết! Một lũ ngu! Ngu... hết cỡ!

 

 

 

                              Phần 1

                           Cõi âm (32)

 

Ðang trên đường đi, thì một đám mây ngũ sắc là là bay qua trên đầu. Huệ ngẩng lên gọi to:

- Bác Nam Tào và hai vị thiên binh, thiên tướng xuống đây có việc gì vậy?

Đám mây dừng lại, vị quan trời ngó xuống, một tay vẫn khư khư ôm cuốn sổ dày cộp áp nơi ngực, một tay cầm cái bút lông cùng hai thiên binh, một cầm truỳ gái, một lăm lăm cây đại đao gắn ba cái chuông có tua đỏ, nói:

- Cô Huệ đưa gã người trần gian kia đi đâu đấy? Chúng tôi xuống tìm một gã nhà thơ. Trần gian không thấy gã, Thiên Ðình gã không lên, Ngọc Hoàng đồ rằng gã trốn xuống Âm phủ bèn sai ba chúng tôi xuống truy tìm để bắt về.

Huệ hỏi:

- Nhà thơ mắc tội gì mà náo động cả trần gian, thượng giới thế bác?

- Chào cô, chúng tôi đang vội, mời cô về trời đi, Thánh Mẫu đang tìm cô. Từ hồi cô đi chơi, hồ tiên không ai trông coi để lũ đàn ông mất nết chuyên đi rình trộm, xem tiên tắm nên thời gian qua chúng đầu thai xuống trần gian toàn bọn sao Hàm Trì (9) chiếu mệnh, trai lơ đĩ bợm đủ hạng từ thằng to chí thằng nhỏ tứ lung tung loạn xạ cả mặt đất cô không biết sao? Vì thế trần gian bây giờ nhà nghỉ, nhà khách, quán Karaoke, tiệm gội đầu thư giãn mọc nhanh như nấm khắp nơi để phục vụ bọn chúng.

Nam Tào chưa nói hết câu đám mây ngũ sắc đã là là bay đi, Huệ nói với theo:

- Em đang đi kiếm tấm chồng đây, khi nào được em về, anh bảo Thánh Mẫu đừng tìm em.

Gã nhà thơ bị Ngọc Hoàng tróc nã tên là Từ Ðào, một gã lãng tử với bộ óc đẫm mây, tràn gió lúc nào cũng mơ mộng hão huyền. Nghèo kiết xác, gã vẫn “du mộng” ra rằng mình giàu nhất làng Vũ Ðại. Không thuộc nhân khẩu làng Vũ Ðại nhưng Từ Ðào lúc nào cũng mơ thành người giàu làng Vũ Ðại! Phải là người làng Vũ Ðại mới nổi tiếng được. Hằng đêm hắn ngủ mơ ra những giấc mơ rút ruột “tằm” kéo ra những câu thơ vần lưng, vân chân nôm na trăm bài giống nhau chín chục, rặt một giọng nước ốc nước hến ao bèo. Mẹ đang sống sờ sờ gã đã than thở “mẹ về cõi xa”; cha vẫn uống rượu tì tì, hai cha con tháng vài lần ra quán hát Karaoke hò hát nhặng xị, gã vẫn nỉ non “cha tôi nằm giữa cánh đồng lạnh sương” nặng trĩu cả trời mây. Bạn bè bốn phương tưởng thật, rầu rầu nét mặt, phong bì giắt túi đến chia buồn mới biết mình… bị trúng quả nhầm khi dâng phong bì lên ban thờ, nơi thờ ảnh ông nội nhà gã mất từ năm đói Ất Dậu (1945). Khi ấy chẳng lẽ lấy phong bì lại, đem về có mà xui xẻo chết. Những vần thơ thương vay khóc mượn ấy chưa lâm ly bằng gần đây gã vống một tin đồn, gã mắc trọng bệnh. Bạn bè bốn phương hoảng hết tinh thần: “Thôi rồi, phen này non nước cẩm nhung này mất đứt một tài năng kiệt xuất”. Ðang đêm người nọ tê lê phôn báo cho người kia tỉnh dậy nghe tin “giờ chót” nóng hổi về tình hình sức khoẻ cái ngón tay cần bút của nhà thơ Từ Ðào.

Thương ôi, một nhân tài đang phát tiết sắp về cõi xa. Với tấm lòng vàng vốn có của người Việt, cứu người như cứu hoả! Bạc tiền còn làm ra được, thân bạn cũng như thân ta, bằng mọi cách phải ngăn lưỡi hái thần chết lại. Những bài thuốc gia truyền: Nấm linh chi mọc trên ngọn cây lim nghìn tuổi, tam thất Tàu thứ thiệt, loại năm mươi củ một ky lô gam, tẩm mật ong rừng Tây Bắc, Từ Ðào uống hàng cân. Những tuýp mật gấu tươi tính bằng CC hút từ bọng mật gấu “Tây Nguyên”... nuôi bằng cám lợn! Rồi bài thuốc chữa ung thư suýt bị thất truyền: Bạch hoa xà thiệt thảo + Bán liên chi của một tử tù người Mỹ gốc Hoa từ nhà tù nước Mỹ truyền ra có người ghi được công thức gửi về nhà nghỉ Bồng Lai để cứu gấp cái ngón tay cầm bút của Từ Đào.

Các độc giả ơi, bạn thơ ơi! Nhà thơ đang nằm chữa bịnh tại khách sạn, không có điều kiện sắc thuốc, nghiền nhỏ nấm linh chi, tam thất đâu. Ai muốn giúp nhà thơ, xin tuỳ tấm lòng vàng… ôi những tấm lòng vàng… vàng hay đô la, ơ rô (eur) là tiện nhất trần đời…

Một độc giả vừa đi công cán Phi Châu về, được bạn người Châu Phi biếu mẩu sừng tê giác, có người cần mua trả cả trăm triệu đồng không bán. Nghe tin nhà thơ Từ Ðào bị bệnh đau cái ngón tay cầm bút liền cho mượn để nhà thơ mài uống chữa trọng bịnh. Mài uống được ba tuần ngón tay nhà thơ đã đỡ hẳn, người khoẻ ra, và lại cầm bút làm thơ nhoay nhoáy. Càng uống nước mài sừng tê giác càng hăng, càng khoẻ cái khoản… không bị bịnh!

Vị độc giả nọ hay tin nhà thơ bệnh tình mười phần đã giảm chín chín, gọi điện thoại để xin lại mẩu sừng tê giác, liền nghe được một câu lạnh như gáo nước đá giội từ đầu đến chân:

- Mình đánh mất rồi, thông cảm nhé!

Hôm sau, tất cả bạn bè của nhà thơ và các độc giả đọc được mẩu tin rao vặt trên một tờ báo: “Nhà thơ Từ Ðào bị bịnh ngón tay đã đỡ, nhưng vừa đánh rơi đâu mất cái sừng tê giác, ai nhặt được cho nhà thơ xin lại, hoặc ai có sừng tê giác hãy cho nhà thơ mượn để chữa nốt một phần trăm bịnh đang chữa dở”!

Từ Nam chí Bắc, những người ủng hộ vật chất, tiền bạc cho nhà thơ chữa trọng bịnh… cái ngón tay đều thất thanh kêu: “ Ới Giời ơi” cùng lúc!

Tít tận Thiên Ðình, ông Giời đang ngồi xem các nàng tiên múa hát bỗng giật nẩy mình, đầu đau như búa bổ, lăn kềnh ra giữa sân rồng nhăn nhó, vật vã. Bà Giời hoảng hốt truyền gọi quan ngự y tới bắt mạch cho Ngọc Hoàng. Quan ngự y vừa cầm lấy tay đã “bắt” ngay ra mạch bệnh của ông Giời, vội quỳ xuống sân rồng, tâu:

- Xin Ngọc Hoàng Thượng đế cho bắt ngay tên nhà thơ Từ Ðào lên trị tội.

Ngọc Hoàng dướn cặp lông mày bạc trắng rậm rì rì, mắt sáng lên long lanh, và hỏi quan ngự y:

- Nhà thơ hả? Trẫm rất mê thơ, trẫm yêu quý các nhà thơ lắm, cuộc sống mà thiếu thơ ca, tâm hồn sẽ nghèo nàn, buồn tẻ cô đơn, rỗng tuếch! Mà cái bà trời thật keo kiệt, chẳng đẻ cho trẫm lấy một hoàng tử là nhà thơ để trẫm tự hào với thiên hạ, toàn đẻ ra những thằng tham quyền chức, tham tiền, hám gái mới chán chứ. Nhà thơ Từ Ðào có tác phẩm mới xuất bản hả? Truyền chỉ cho nhà thơ đem tặng sách trẫm ngay.

- Tâu bệ hạ, hắn vừa làm cả gầm trời thiên hạ đồng thanh kêu giời cùng lúc nên động đến long thể bệ hạ, làm bệ hạ bị đau đầu đấy ạ!

- To gan! Nam Tào đâu? Dẫn thiên binh, thiên tướng đi tróc nã tên nhà thơ ấy về đây để ta trị tội.

Chính vì thế chúng tôi mới có cuộc gặp ba vị đó dưới âm phủ như kể ở đoạn trên. Còn sau đó Nam Tào cùng hai vị thiên tướng, thiên binh có tróc nã ra nhà thơ Từ Ðào hay không, không biết nữa.

 

------------------------------------

(9): Theo văn hóa cổ thần bí phương Đông, Hàm Trì là sao chỉ người dâm đãng, trụy lạc.

                                 Phần 1

                             Cõi âm (33)

 

Hai chúng tôi đến một khu rừng, rìa rừng là bãi sình lầy mọc đầy cỏ hoang, hoa mua lay bay tím nở, những đàn bướm trắng, bướm vàng dập dờn bay lượn đậu xuống, bay lên đùa giỡn với những chùm hoa nở, dàn đều khắp bãi trông như tấm thảm muôn hường nghìn tía. Trên lưng chừng đồi là bạt ngàn sim chín, ổi chín, xen dưới gốc những cây bồ quân sai trĩu trịt, chín mọng tỏa mùi thơm ngọt ngào. Lúc đầu tôi cứ nghĩ đó là những đàn chim ríu rít ăn quả. Nhưng không phải, Huệ nói đây là vương quốc của các thiên thần bé nhỏ - vương quốc hai nhi. Các hài nhi trai cũng như gái, hài nhi nào cũng có đôi cánh tiên mỏng luôn chấp chới xoè ra cụp vào để giữ thăng bằng, để bay đi bay lại, bâu vào hoa, đậu lên quả líu lo nhảy múa và ca hát; chuyền cây nọ, nhảy sang cây kia nô đùa cùng nhau. Ðứng trước một rừng các thiên thần bé nhỏ vô tư ấy, thấy tạnh lòng mọi buồn vui sướng khổ từ cõi trần gian mang theo. Nơi đây không quỷ canh, ma gác, bầu trời hồ thuỷ trong suốt, cao thẳm, cây cối lặng phắc như tờ. Rồi một đàn thiên thần khá đông bay vút lên mây xanh biến mất vào tầng không trung mênh mang huyền ảo. Tôi hỏi Huệ:

- Những thiên thần bé nhỏ bay đi đâu thế nhỉ?

Huệ hỏi lại tôi:

- Anh thích xem chúng hành tội đám cha ruột của mình không?

Huệ cù trúng tính tò mò vốn có của tôi. Tôi bắt ngay lấy câu gợi ý của Huệ:

- Ở đâu, có xa không?

- Anh thích thì đi, xa hay gần đối với em đều thế cả, xe mây ngựa gió ngại gì. Em đưa anh đi.

Dứt ba tiếng vỗ tay của Huệ, một cỗ xe song mã trắng như tuyết cả xe lẫn ngựa hiện ra. Huệ lên xe và giơ tay đón tôi lên ngồi cạnh. Trước khi tung vó, hai bên lưng cặp thiên mã mọc phựt lên mỗi con một đôi cánh tiên hai bên sườn và từ từ nâng bổng cỗ xe lên mây bay đi vun vút. Không ăn trầu nên tôi không biết nhai giập miếng trầu là bao lâu, chỉ biết tôi vừa ngồi vào xe, chưa kịp chỉnh đốn tư thế ngồi cho thoải mái, Huệ đã bảo:

- Tới nơi rồi, xuống đi anh.

Thế là tôi được kiểm chứng câu cửa miệng trong dân gian chỉ cái sự nhanh: “Vừa nhai giập miếng trầu thì đến nơi” là vậy.

Trước mặt tôi một bãi cây xấu hổ, thứ cây này còn có tên là trinh nữ - cây trinh nữ, vì khi chạm vào cây là toàn bộ những chiếc lá nhỏ trên các cành lá từ từ cụp lại vẻ e lệ. Cây tươi mọc chồng lên những cây khô tầng tầng lớp lớp bùng nhùng gai góc. Những chiếc gai hình mỏ quắp tua tủa mọc đầy thân cây, sống lá. Gai cây xấu hổ nhỏ con thôi nhưng cào vào da thịt thì vừa đau vừa buốt lắm. Cạnh đó là một bãi xanh mịn cỏ gừng toàn những người đàn ông cởi trần nằm ngồi nghiêng ngả la liệt, họ đang bắt chấy rận, tẩm quất, đấm bóp cho nhau, hay làm gì đó mà từ xa tôi không nhận rõ.

Bỗng trên trời một đàn đen đặc như đàn chim bay ào ào đến, tất cả đám đàn ông đủ lứa tuổi kia rối rít chạy toán loạn, miệng kêu la:

- Ới giờ ơi! Lũ nhãi ranh lại đến rồi, chạy đi anh em ơi!

Tất cả bọn họ bật dậy chạy tứ lung tung rúc vào bãi cây xấu hổ ẩn nấp. Người không tìm được chỗ nấp thì vừa chạy vừa ôm mặt kêu ôi ối, người quấn kín khăn tắm quanh người mà vẫn oằn oại với vẻ đau đớn, lăn lộn vật vã giữa bùng nhùng cây xấu hổ đầy gai. Tôi căng mắt nhìn kĩ xem cái gì hành hạ họ lúc đó. Nhận ra những thiên thần mà tôi vừa gặp ở khu rừng lúc trước; tốp ba, tốp năm, đàn mười, đàn trên hai chục, mỗi thiên thần cầm một cành lá han bay theo quật túi bụi vào lưng, ngực, bụng, mặt những người đàn ông làm da thịt họ nổi ban đỏ hắt khắp người. Ðám đàn ông thì người kêu ngứa, kẻ kêu rát, kêu nhức, kêu xót, kêu nhặm inh ỏi. Tôi toan nhảy ra ngăn đám trẻ nít ấy, không để chúng nghịch ngợm hỗn láo với người lớn như thế được. Huệ kịp giữ tôi lại, và quát:

- Anh muốn bị hành hạ cho đau đớn như bọn người kia phải không? Ở đây không phải việc của mình thì đừng có can thiệp vào, anh không thể bênh vực được ai đâu, không như chốn trần gian của anh, cứ có sức mạnh, có tiền, có quyền lực là muốn làm gì cũng được. Dưới này khác. Quyền lực, sức mạnh, tiền bạc chẳng nói lên điều gì ở đây. Những thứ đó trong tay các Diêm Vương và quỷ sứ mới có giá trị. Còn linh hồn con người chỉ là thứ yếu ớt chẳng làm sầy da tróc vẩy được ai.

Tôi gắt lên với Huệ:

- Thế lũ thiên thần kia là những kẻ nào? Trông chúng hiền lành ngây thơ thế! Vậy mà?

- Là lũ con cái của họ cả đấy!

Hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, nhưng tôi thật khó chấp nhận trước sự bất ngờ lần này. Cảnh hỗn xược đó làm cho tôi bực mình đến khó kiềm chế:

- Có thứ con nào đi hành hạ cha đẻ của mình như lũ trẻ quái đản kia không? Ðồ bất hiếu, đồ vô giáo dục!

Huệ cười khanh khách chế nhạo tôi, mắt Huệ cứ tít theo chuỗi cười chế nhạo ấy:

- Anh luôn là người hành tinh khác.

Tôi cãi:

- Tôi không là người hành tinh khác, tôi là người sinh ra và lớn lên trên thế giới này đã sáu mươi năm, từng đi khắp dải đất hình rồng này, từ chót mũi Cà Mâu tới địa đầu Lũng Cú, làm gì tôi không hiểu luân lí, sự đời?

- Anh vừa cố chấp vừa bảo thủ, càng vỗ ngực cho rằng mình hiểu biết càng thò cái đuôi ngu nhà anh ra. Nơi trần gian anh đang sống mọi điều đều tốt đẹp cả đấy nhỉ? Xin hỏi anh: hàng vạn kẻ nghiện ngập ma tuý, hàng ngàn kẻ tội đồ, bị án tử hình, chết đi rồi còn để tai tiếng cho cha mẹ, bởi họ trót sinh ra đứa con hư hỏng. Những đứa giết người cướp của chẳng là chúng hành hạ cha mẹ chúng nó ư? Chờ đấy, tí nữa anh sẽ được trò chuyện thoải mái với chúng, khi đó anh sẽ thấy ghê tởm cái đám người kia. Hai con ngựa tiên đứng chờ, xem cảnh ấy cả hai đều nghếch mõm lên trời cười khanh khách rung mao rung bờm, cả cỗ xe cũng rung rung cười hinh hích. Huệ bảo:

- Hai con ngựa nói được tiếng người đấy, anh thích thì nói chuyện với chúng, hay đáo để.

- Thôi thôi… thôi! Tôi không còn là trẻ con mà bị “cổ tích lừa”(10).

Một con ngựa nghe tôi nói thế tắt ngấm tiếng cười, quay sang mắng tôi:

- Cổ tích không lừa. Cổ tích, cõi thần tiên khai sáng những ước mơ của con trẻ, khai sáng văn minh loài người, anh cho rằng cổ tích lừa thì anh chẳng biết gì, hiểu gì về cổ tích. Anh là đồ vô ơn, ăn cháo đá bát!

 

                                          

--------------------------------------

(10): Thơ Hải Thanh

 

 

 

                               Phần 1

                            Cõi âm (34)

 

 

Lúc ấy mặt tôi nóng bừng, định cãi nhau với chúng một phen cho hả. Song kịp nghĩ: “Giống lừa giống ngựa biết gì mà cãi nhau với chúng”. Tôi im lặng và lờ đi, nhưng hai con ngựa cứ ra rả nói bao la là chuyện trên trời dưới bể, toàn chuyện của nước nảo nước nào chẳng rõ thực hư ra sao khiến tôi mê mụ cả đầu óc. Không thấy tôi bắt chuyện, hai con ngựa quay ra tranh hơn với nhau:

Con thứ nhất:

- Ở vương quốc Tham có một vị giám đốc giỏi giang. Nhà máy ông ta lãnh đạo làm ăn phát đạt, đời sống cán bộ công nhân viên khấm khá lắm, mỗi năm nộp cho ngân quỹ vương quốc hàng trăm tỉ đồng, bản thân ông ta sống rất thanh đạm, lương bổng có sao lĩnh vậy, không tham ô tham nhũng, không lợi dụng quyền chức để chia chác đất đai xây biệt thự riêng như giám đốc Vương quốc khác...

Liền bị con ngựa thứ hai ngắt lời:

- Anh biết một mà không biết hai, ông ta đã được vương quốc cung cấp đủ thứ: biệt thự riêng không phải trả tiền đất, tiền xây dựng, cả xe ôtô loại xịn, lương lái xe đã có vương quốc trả muốn đi đâu cứ việc gọi lái xe đưa đi, cả việc công cũng như việc tư, Thứ Bảy, Chủ Nhật đi chơi gôn (golf) xa hàng trăm cây số, đi lễ chùa, đi thăm bà con họ hàng đều dùng xe công. Nói chung mọi sinh hoạt hàng ngày tất tần tật đều sử dụng xe công cả. Đấy mà gọi là sống liêm khiết, là vì nhân dân quên mình ư? Nói thế chỉ thằng người trần mắt thịt nó nghe. Giống ngựa tiên ta không nghe được, không ngửi được!

Con thứ nhất gõ móng cồm cộp xuống đất nói át lời con thứ hai:

- Người ta có thâm niên công hiến thành tích cho vương quốc thì người ta được hưởng, được ưu tiên là đúng có gì phải bàn, phải thắc mắc cho mất thì giờ!

Phớt lờ lời con thứ nhất, con ngựa thứ hai vẫy vẫy hai tai át giọng con kia:

- Chỉ vì cô bồ của ông ta mà ba năm nay cán bộ công nhân không được tăng lương. Cô bồ vào làm hợp đồng chưa được một năm ông ta đã định tăng lương bậc cao cho bồ, hội đồng xét duyệt không đồng ý, thế là ông ta “treo” toàn bộ nhà máy không tăng lương ba năm liền để chờ cô bồ đến niên hạn tăng cùng một thể. Con trai ông ta lấy ôtô tiêu chuẩn của bố tham gia đua xe gây tai nạn làm chết người, ông ta cho người lái xe đứng ra chịu tội, tù thay, vợ người lái xe ở nhà lĩnh lương thay chồng đều đều về nuôi con vậy mà bảo ông ta liêm với chả khiết, nói đến thằng cu Cuội ngồi gốc cây đa trên cung trăng nghe chẳng lọt tai nữa là nòi giống con Rồng cháu Tiên chúng ta. Tất cả những thứ đó đều là tiền của người dân…

Con ngựa thứ nhất vặc lại:

- Người dân trên răng, dưới các tút lấy đâu ra tiền?

Con thứ hai trả lời:

- Tiền thuế !

Con thứ nhất vặn:

- Thuế gì?

Con thứ hai giải thích:

- Này nhé, người dân từ khi chui ra khỏi bụng mẹ đã phải đóng thuế cho nhà nước rồi. Đầu tiên là đóng thuế cho cuộn bông băng, băng cuống rốn; thuế đóng cho những cái bỉm, hộp sữa ăn thêm để chờ vú mẹ tiết sữa. Rồi thuế tã lót, áo lọt lòng, đôi tất tay, tất chân và cứ thế đóng thuế cả đời mỗi khi mua hàng hoá tiêu dùng. Đóng và đóng cho đến khi đậy nắp quan tài. Thuế đóng cho chiếc quan tài là món thuế cuối cùng của một đời người. Chưa kể đến những nghĩa vụ công dân khác nữa!...

Một nàng tiên, bạn Huệ xiêm y là lượt từ trên cao là là bay đến rồi đỗ xuống sát người Huệ:

- Em chào anh, em chào chị. Chị Huệ ơi, bạn em dưới trần vừa lên chơi muốn đi thăm cõi tiên, chị cho em mượn xe một buổi. Xe của em, hai con ngựa trốn đi chơi đâu ấy, em gọi mãi chúng không về.

Huệ nói với nàng tiên kia:

- Em cẩn thận đấy, chúng mà trốn xuống trần gian đầu thai giả làm người “tử tế”để tác oai tác quái gây họa dưới trần gian là em sẽ bị Ngọc Hoàng phạt tội nặng đấy.

Lúc ấy hai con ngựa của Huệ mới thôi cuộc tranh luận. Cũng khi ấy những thiên thần bé nhỏ í ới gọi nhau bay đi. Tôi chạy đến đỡ một người quấn tròn trong chiếc chăn chiên dậy, ông ta vẫn xít xoa kêu:

- Rát quá, buốt quá, xót quá, cái thứ lá han sao mà kinh khủng khiếp. Lũ ôn con, lũ mất dạy, con với cái, đồ hư đốn hỗn hào!

Tôi hỏi:

- Chúng là con ông?

- Phải, chúng là con tôi cả. Lũ mất dậy. Những phụ nữ ân ái với tôi mang “những bản thảo già chín tháng mười ngày còn bị nạo thai”(11) tôi nào biết gì đâu. Giờ xuống đây cứ tôi chúng nó hành hạ bác ạ. Khổ thân tôi quá.

Lão ta thán thế làm Huệ nổi giận bẻ cành cây xấu hổ đầy gai quật mấy cái vào giữa mồm lão làm máu tứa ra be bét từ những vết cào ở môi, ở má.

- Oan cái con Thị Màu, bạ đâu tán gái đấy, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường, vợ hờ, nhân tình nhân bánh đầu đường xó chợ tứ lung tung, rải con khắp mọi nẻo đường quốc lộ trong Nam ngoài Bắc còn oan với chả ức. Còn nhớ năm 1972 được giao chở một xe ôtô hàng đi chiến trường, đến nửa đường rút lõi mấy tạ bán lấy tiền đi bao gái không? Ăn cắp rồi, bán rồi mới nghĩ đến việc giao hàng bị thiếu, sợ tội, sợ tù, bèn lập mưu cho xe chạy đến vùng địch thường rải bom toạ độ giả vờ bị ốm, chờ lúc máy bay đến đánh bom để mượn cớ đốt cả xe hàng rồi về báo là xe bị trúng bom cháy mất cả, còn mỹ tự rằng: “May mà bom đạn nó tránh em không thì em cũng bị chết cháy theo xe!?”. Lưu manh, lừa đảo thế mà lúc nào mặt cũng vênh vênh ưỡn ngực khoe huân chương này nọ. Không còn biết liêm sỉ ra cái ngõng cối giàng xay gì sất cả. Bịt mắt người trần, bịt sao được mắt tiên. Có cần xem lại tội nhà mi ta cho xem lại sự việc của mi trong Gương Quá Khứ Hiện Về ngay đây.

Nghe Huệ vạch tội, gã đàn ông quỳ sụp xuống vái lấy vái để như tế sao:

- Con cắn rơm cắn cỏ lạy tiên nữ, tiên nữ tha cho con, ở trần thế con đã ngu muội tham lam đủ thứ, giờ hối hận thì đã muộn, mong tiên nữ xin Diêm Vương đừng hành tội con nữa, con biết tội mình rồi.

- Cái đó ta không làm được, gây tội thì chịu lấy tội, ai mà xin xỏ được cho nhà các ngươi. Chúng ta đi thôi. Anh!

HXH

----------------------------------

(11): Thơ Dương Tường

 

 

                                Phần 1

                             Cõi âm (35)

 

Trong bụi cây xấu hổ gần đó, một thiên thần sau khi quật lá han vào người đàn ông đã chán tay, mặc người đàn ông đau đớn nhăn nhó, rên rỉ, chú bé đánh bệt đít ra đất cạnh người bố, hai tay nắm lại dụi mắt, dụi mũi mếu máo:

- Bắt đền đấy, bắt đền đấy, nào nào… nào nào… bắt đền đấy… nào nào…

Thấy chú bé ngồi khóc một mình, tôi bảo Huệ cho tôi hỏi chuyện nó. Huệ đồng ý, bảo tôi:

- Anh nói chuyện với nó đi. Thằng bé “cụ non” này nếu được làm người sẽ không là kẻ cù lần đâu. Tiếc quá, nó bị giết ngay từ trong trứng!

Tôi đến sát người thằng bé vẫn không hay biết gì, vì còn mải “bắt đền, bắt đền đấy” với người đàn ông kia. Tôi vừa xoa vào đầu, thằng bé vội vơ lấy cành lá han bay vọt lên cao quát xuống:

- Làm gì thế? Cái ông này?

- Xin lỗi, tôi muốn nói chuyện với cậu.

- Ông là người trần gian chứ gì, tôi biết, ông là người chứ không phải linh hồn chết như tôi. Ðáng ra tôi cũng được làm người như ông. Giá được làm người tôi sẽ là nhà thơ nổi tiếng, tôi đầu thai nhầm cửa, người ta chỉ là kẻ thích hưởng lạc, vui thú chốc lát với nhau mà gây họa cho tôi, tôi không thành nhà thơ nơi trần gian được nữa. Trần gian người ta yêu thơ ghê lắm chứ không như cõi Âm phủ tù mù tịt mịt này. Thơ tôi làm ra bao nhiêu chẳng biết tặng ai, phân phát cho ai, chẳng ai thiết đọc thơ tôi. Người ta chỉ túm năm tụm ba để nhớ về trần gian, nhớ những ngày oanh liệt trên trần gian. Kẻ giầu có thì nhớ tiếc xe hơi, biệt thự, kẻ có tiền trong tay thì tiếc ngẩn tiếc ngơ vì không mang theo được. Kẻ tính trăng hoa ngồi nhớ tiếc những người đàn bà đẹp họ chinh phục được để khoe với bạn rượu, bạn chơi. Kẻ thì ấm ức với mối hận thù chưa kịp trả, hậm hực mãi trong lòng. Vì thế họ không thích đọc thơ, nghe thơ.

Cậu bé cù đúng sở thích của tôi, tôi liền gợi chuyện:

- Thích quá nhỉ, bé tí mà cháu đã biết làm thơ, ở trần gian mà như cháu sẽ được phong thần đồng, thần ruộng ngay lập tức.

Mặt cậu bé tươi lên rạng rỡ, niềm kiêu hãnh thi sĩ thăng hoa lên hơn hớn:

- Cháu mà được làm người thì thứ thơ tụng kinh cúng cụ của thần đồng nhà các bác chả thằng nào ăn đứt được cháu. Cháu sẽ làm thơ hay ngay từ lúc biết nói cho mà xem - Cậu bé tỉnh bơ nói với tôi như vậy.

Tôi lại hỏi:

- Thế ở dưới này cháu có làm thơ không?

- Cháu làm thơ chứ! Làm nhiều là khác. Ở đâu không có thơ thì ở đấy cuộc sống chẳng có ý nghĩa gì sất.

- Ðọc vài bài cho bác nghe thử xem sao.

- Bác thích đề tài gì?

- Về cháu chẳng hạn!

- Về cháu, cháu làm thơ làm gì. Dưới này thiếu gì chuyện người trần gian đem xuống làm đề tài để cháu làm thơ. Người trần gian các bác thì lúc nào cũng chỉ thích tiền thôi, cháu đọc bài thơ về tiền cho bác nghe nhé!

Chú bé không cần biết tôi có đồng ý nghe thơ về đề tài tiền hay không, đã nhanh mồm đọc luôn:

- Tiên nhân

đồng bạc

đồng tiền

đồng sấp

đồng ngửa

đồng phiền phức nhau

đồng mua được thịt

đồng chỉ mua rau

đồng chan nước mắt

đồng nhàu mồ hôi.

Ðồng tiền

đồng phấn

đồng vôi

đồng tàn đồng ác

đồng tồi như ngươi.

Tiên nhân

đồng bạc

đồng tiền

ngươi bảo ngươi hiền

ngươi lẩn như ma”.

Chú bé hứng khởi đọc, còn tôi há hốc mồm ra nghe thơ của nó. Không hiểu cái mồm tôi, bộ mặt tôi lúc đó có gì ngồ ngộ, dớ dẩn, dở hơi hay quái dị đến mức nào mà Huệ cười rũ rượi, bệt ra đất cười vật cười vã. Chờ Huệ cười chán, cười hết chỗ buồn cười, tôi quay lại định nói chuyện tiếp với chú bé thì nó đã bay đâu mất!

Trong một bụi rậm gần đó lại vọng ra tiếng kêu:

- Ôi ngứa quá, rát quá, đau quá, khắp người bố sưng tấy cả rồi các con ơi! Cho bố xin lỗi… xin lỗi… xin lỗi các con.

Tôi vạch bụi cây ngó vào thấy ba thiên thần bé nhỏ khác đang mỗi đứa một cành lá han tới tấp quật, đánh một người đàn ông. Gã này co rúm người lại, ngồi trong tư thế bó giò, hai tay ôm lấy đầu, gầm mặt giấu vào hai đầu gối phơi lưng, giơ vai ra cho ba đứa bé đánh. Toàn bộ lưng, vai người đó đỏ hỏn như cá trê lột. Ngoài bụi cây một thiên thần khác, người như không xương, mềm bấy như con sứa đang khóc hu hu.

- Sao cháu ngồi đây một mình?

Nghe tôi hỏi, thằng bé vươn người dậy nhưng cũng không cao lên là mấy.

- Cháu đợi các em nó ra cõng về.

- Ba đứa đang hành hạ người trong bụi kia là các em cháu ả? - Tôi hỏi.

- Vâng, cả ba đều là em cháu. Tội bố cháu to lắm, làm cho các mẹ giết bốn anh em cháu từ lúc các mẹ có thai hai tháng. Cháu là đứa chết thảm nhất.

Rồi nó kể:

- Hai bố mẹ yêu nhau, khi mẹ cháu mang thai, bố cháu không chịu cưới mà bỏ nhà trốn mất tích. Mẹ cháu khi ấy trẻ quá nên không biết làm thế nào, quẫn trí đi uống thuốc phá thai tống cháu ra khỏi bào thai gói vào nylon đem đến ném đánh bẹt vào sân nhà ông nội cháu để trả, làm cháu lún hết cả xương nên người cháu giờ bị mềm oặt cua bấy thế này. Sau đó mẹ cháu bị nỗi ân hận ấy ám ảnh hành hạ ốm dần ốm mòn chết trong đau khổ. Ba em kia là con mẹ khác. Bố cháu bỏ nhà đến một tỉnh xa làm ăn, lại yêu mẹ hai. Lần nào mẹ hai mang thai bố cháu cũng bắt mẹ hai nạo bỏ các em cháu đi để hai người được son rỗi, rảnh rang phấn đấu làm giàu. Tội thế nên bố cháu bị quả báo, hai người chẳng lấy được nhau, cũng chẳng làm giàu được. Cuối cùng hai người rủ nhau đi bóp cổ giết chết bà cụ già ở nhà một mình, cướp đôi hoa tai, bị bắt, người bị tử hình, người tù chung thân.

Nghe cậu bé kế đến đó tôi không còn đủ can đảm nghe thêm nữa. Tôi lẳng lặng trở lại chỗ Huệ và cố giấu đi nỗi xúc động, nhưng Huệ vẫn nhận biết, nói:

- Bảo rồi, anh không chịu nghe còn xúc động nỗi gì? Xuống đây càng tò mò càng khổ tâm thêm.

 

 

 

                                Phần 1

                             Cõi âm (36)

 

 

Ðang thong dong trên con đê dài tít tắp, không rõ con đê sẽ còn tít tắp đến tận đâu, phía trước vẫn thấy lấp ló, quanh co ẩn hiện hình dáng con đê chạy vòng xa mãi xa trước mặt. Con sông ngoài đê không nhìn rõ dòng chảy, chỉ thấy gờn gợn hình như có làn sóng lóng lánh phía ngoài bãi giữa xanh um bãi chuối, nương ngô cùng những vườn cây quả khác. Mùi hương của hoa thoang thoảng bay trong gió quét qua hơi thở khi mũi hít vào, sau đó là mùi của trái chín thơm đậm ngào ngạt mỗi bước đi. Tôi ngó trước nhìn sau để tìm xem ở đâu đây có vườn quả chín nào không mà mùi thơm chất đầy không gian vậy. Nhìn ngang xuống chân đê phía trước một vườn chuối ngự trải dài trổ những bắp hoa đỏ trông như những cây đuốc, mỗi bụi đều có một hai cây chuối mẹ trên ngang cổ mỗi cây đeo một buồng quả mũm mĩm, lác đác xen đôi buồng quả chín màu vàng tơ. Bao quanh vườn chuối là những cây nhãn cổ thụ đang ra hoa; rồi ổi, na, xoài, mít, cam, quýt… toàn giống quý, ra quả tứ thời; cành phía Ðông đang ra hoa, cành đằng Tây quả vừa rụng rốn, cành phía Bắc quả đã ương ương, chùm quả, cành mạn Nam đã chín vàng rộm. Ẩn trong các khu vườn là những mái lều nhỏ lợp bằng nhiều thứ vật liệu khác nhau ở mọi thời kỳ tiến hoá của nhân loại. Cái lợp bằng da thú thuộc thô sơ còn dính những mảng lông cứng tủa tủa; nơi bằng các loại vỏ cây, nơi bằng những chiếc áo tơi lá, nơi mái vải bạt, nơi những mái tăng nylon che độc một chiếc võng bạt treo lơ lửng phía dưới. Thấy lạ, tôi rủ Huệ xuống xem. Huệ bảo:

- Lại xem. Tính anh Phong tò mò khiếp quá! Quả tim của anh bằng thép thì cứ việc vào xem, em ở ngoài này chờ anh.

Dù quả tim không được cấu tạo bằng thép nhưng tôi thích thì tôi thử một phen nữa xem cõi Âm nơi đây họ sống ra sao, mấy khi có dịp đến được đây để mà xem, chờ đến lúc xuống đây thì chẳng cần phải xem cũng biết! Ðầu nghĩ, chân tôi bước tọt vào khu vườn. Người đầu tiên tôi gặp là một người không đầu, giữa hai vai nhô lên một thẻo thịt vát chéo từ gáy xuông ngực đã đóng sẹo nhăn nhúm, tay trái người này ôm khư khư cái đầu trước ngực, tay phải với hái quả na chín dùng răng bóc vỏ và ăn. Trông cái mồm cắn miếng na nhằn nhằn rồi nhổ phì hạt ra, phúng phíu nhai trông ngon lành lắm. Thấy tôi, đôi mắt trên cái đầu ngước nhìn tôi một chặp soi mói. Nhận ra tôi không gây hại gì, lúc ấy cái mồm reo to:

- Có khách anh em ơi!

Từ mọi phía trong vườn ào tới rất đông. Người nào cũng hai tay bê đầu trước ngực. Huệ nói quả không sai. Trông bộ dạng của họ tôi thật sự sợ hãi. Tôi định co cẳng chạy nhưng không kịp, bốn bề họ đã vây quanh, tíu tít người nắm tay, người sờ áo, xoa đầu, lắc vai vần vò tôi như vần vò một vật lạ. Rồi tranh nhau hỏi:

- Ngươi là chút, chít, hay chắt đến thăm ta đấy?

Sợ quá, tôi co rúm người lại. May, Huệ kịp tới rẽ đám người đó ra hai bên:

- Ðây là bạn em đến thăm các anh, bạn em không có ai là người nhà ở đây cả. Thấy vườn quả của các anh đẹp quá thì vào thăm chơi.

- Bạn cô Huệ à? Người nước nào đấy? Ngô, Sở, Nguỵ, Tần hay Nga, Mỹ, Pháp, Đức, Ả Rập vậy?

- Bạn em người Việt Nam.

- Việt Nam đất nước chúng tôi có nghe, nhiều người qua đây đã kể về Việt Nam, họ đánh giặc giỏi lắm. Có gì mới nữa trên trần gian không, kể đi, kể cho chúng tôi nghe với. Nào!

 

Người tôi gặp đầu tiên là một chàng trai trẻ, hai cánh tay cuồn cuộn cơ bắp, anh ta vẫn bê cái đầu trước ngực, mãi sau mới bê đặt lên cổ, nhưng vẫn hai tay nâng giữ. Những người khác cũng vậy, tất cả đều bê đầu đặt lên cổ chạy đến xúm xít quanh tôi.

Tôi hỏi Huệ:

- Con người ở đây sao kỳ lạ vây?

- Có gì kỳ lạ đâu anh, cũng người trần gian xuống đây cả. Họ là những người chết cách đây hai ba nghìn năm, có người vài trăm năm, người gần nhất vài ba năm. Họ đều bị đầu lìa khỏi cổ trong những cuộc chiến tranh giành lãnh thổ, Thập tự chinh thời Thượng cổ, Trung cổ, cả bị đứt đầu trong những trận chiến nhỏ, lẻ như các cuộc khủng bố của IS gần đây; bị đạn pháo, mảnh bom phạt lìa đầu khỏi cổ nên không thể đầu thai làm người được. Cho họ đi đầu thai, khi sinh ra, đứa trẻ đầu một nơi, mình một nẻo thế kia, như quái thai ai dám nuôi. Không được tái kiếp nên họ được giao trông những vườn quả cho Diêm Vương. Tất cả họ còn trẻ, người nhiều tuổi nhất chưa ai quá 40, ít tuổi nhất là trẻ em 1 tuổi, các em bé này chết bởi họa tru di cả dòng họ do tội khi quân (tội xúc phạm vua chúa) ở nước này quốc gia kia vì các chế độ quân chủ đọc quyền. Còn vườn quả bên kia là nơi sinh sống của những người mất tay hoặc chân, không được đi đầu thai cũng với những lý do như trên. Nhiều người nhớ cuộc sống nơi trần gian trốn đi, đến xin, nói khó với mười hai bà Mụ để được trở lại làm người. Thương tình, các bà Mụ cho đầu thai trở lại trần gian thành người tật nguyền, càng thêm khổ, chán lại bỏ về đây cả.

 

                                           

 

                               

                                 Phần 1

                               Cõi âm (37)

 

 

Huệ nói tiếp:

- Ở đây, em nhớ có một người mẹ, trên trần gian bà là người hiền từ đức độ, không bao giờ làm điều ác với cả con ong con kiến, ngay trong ý nghĩ bà cũng không hề nghĩ xấu về bất cứ ai, dù người đó đối xử tệ với bà. Bà cũng chỉ nói: - “Hiểu lầm ấy mà”. Xuống đây bà không phải trải qua bảy cửa ngục, không bị quỷ sứ tra khảo, hành tội. Diêm Vương cho đi đầu thai trở lại làm người, bà cũng nhất quyết không đi, bà xin ở lại cõi âm, Diêm Vương hiểu sai ý bà, nghĩ bà thích lên cõi tiên, bèn đưa lên cõi tiên bà cũng từ chối. Bà xin được ở với ba người con trai để chăm sóc họ. Ta tới thăm bà đi.

Tôi hỏi:

- Bà là người mẹ của nước nào?

- Ở đây không phân biệt người nước Tề, nước Ngô hay nước Việt. Đối với người nước nào bà cũng xứng đáng là người mẹ cao quý, trân trọng. Chiến tranh chỉ những người mẹ chịu khổ đau, thiệt thòi nhất mà thôi.

Huệ quay sang bảo mấy người đứng cạnh:

- Các anh chỉ giúp đường sang trang trại bốn mẹ con bà Vương.

Tất cả đều nhao nhao:

- Tiên nữ đi theo em, đi theo em. Tiên nữ đi theo chúng em…

Cả đám đông rùng rùng kéo nhau dẫn chúng tôi đi. Qua vài khu vườn lớn đến một khu vườn nhỏ. Từ xa họ đã đồng thanh gọi lớn:

- Bà Vương ơi, các chú Nhất, Nhị, Tam ơi, có khách, có khách! Tiên nữ Hồng Huệ đến thăm!

Một bà cụ già tóc bạc nhưng rất khó đoán tuổi, tất tưởi từ trong vườn chạy ra, trong tay đang cầm cái cuốc móng xới cây. Cả ba người thanh niên cũng bê đầu của mình trên tay chạy ra theo mẹ.

Bà cụ hồ hởi:

- Quý hoá quá, hôm nay tiên cô Hồng Huệ bớt chút thời gian tới thăm mẹ con lão. Cảm ơn, cảm ơn tiên cô!

Khi nhìn thấy tôi bà vội im bặt, bộ điệu như khó chịu ngó tôi từ đầu đến chân vẻ do dự. Lát sau bà mới quay sang hỏi Huệ:

- Người đi cùng tiên nữ kia là ai thế?

- Ðây là bạn tôi trên trần gian xuống chơi!

Bà Vương quan sát lại từ đầu đến chân tôi rồi quay sang hỏi Huệ:

- Bạn cô Huệ có làm quan làm kiếc gì không đấy?

- Không, bạn em thường dân thôi. Mà sao bà Vương lại hỏi về việc ấy?

- Giờ tôi không muốn tiếp xúc với những hạng ấy nữa, cô ạ!.

Xin tuần tự sơ qua lai lịch bốn mẹ con bà Vương:

Bà Vương mang họ Vương, tên Vương, chữ đệm là Mộng. Mẹ bà Vương bảy lần sinh nhưng chỉ nuôi được mỗi mình bà. Bà là con út. Sáu các người anh, người chị kia không ai sống nổi quá ba năm. Ngươi chết vì nhiễm trùng rốn, người chết bệnh sởi, người mất do bệnh đậu mùa, người mất do viêm phổi nhiễm lạnh, người mất do sài, đẹn... Cái ngày xưa ấy cách đây vài trăm năm trẻ nhỏ hay chết vì các bệnh như vậy. Cha mẹ bà Vương không có con trai nối dòng, khi bà đến tuổi lấy chồng gia đình bà quyết không gả con cho người mang dòng họ khác, sợ gả cho người khác họ, họ Vương của bà mất họ (ấy là cha mẹ bà quan miện vậy). Gia đình bà nhờ người mai mối, tìm một người họ Vương ở nơi xa để gả chồng cho con. Vì sợ gả cho người họ Vương cùng làng cùng xã, gần quá nhỡ gả nhầm người cận huyết thống sẽ làm thoái hóa giống nòi, con cháu nguy cơ bị dị dạng, kém trí tuệ, hoặc mang bệnh tật di truyền như: mù màu (không phân biệt được màu đỏ và màu xanh), bạch tạng, da vảy cá... Các con trai bà đều mang họ Vương của bà sự thể là vì vậy, không phải lý do phức tạp nào khác.

Vương Nhất là người có tư chất thông minh. Học văn giỏi văn, học võ giỏi võ. Chữ viết nét thanh nét đậm rõ ràng chân phương. Chữ thư pháp của Vương Nhất nét rồng bay, nét phượng múa, nhiều ông đồ trong vùng còn phải xin chữ của Vương Nhất về treo. Nếu được sinh trong gia đình giàu có, tin là đường học hành của Vương Nhất còn đỗ đạt cao. Trạng nguyên, tiến sĩ với tài trí của Vương Nhất sẽ trong nắm tầm tay. Nhà nghèo nên anh đỗ kỳ thi hương rồi thôi học xin đi làm thư lại. Một viên quan đầu tỉnh biết Vương Nhất học giỏi, đánh tiếng gả con gái cho, nếu Vương Nhất chiụ lấy con gái ông ta, ông ta sẽ chu cấp tiền của cho Vương Nhất ăn học để đỗ đạt cao hơn sau đó ông ta sẽ tiến cử vào triều làm quan.

Vì Vương Nhất không hám gái, cũng không mê sự giầu sang do người khác ban phát. Cái tính khỉ của mấy anh hàn nho thường sĩ diện thế. Sợ luỵ nhà quan, mượn bóng nhà quan để thăng tiến phải chịu ơn họ cho đến muôn đời con cháu thì nhục lắm. Tính cương trực ương ngạnh sĩ diện ấy hệ luỵ ngay vào cuộc đời Vương Nhất sau đó.

- À, thằng oắt con này, đã con nhà nghèo còn sĩ, ông sẽ cho mày biết thế nào là những thằng mắc bệnh sĩ!

Lão quan thâm hiểm ấy không đạt được mục đích gả con cho anh học trò học giỏi, y liền nghĩ ra một độc kế. Hắn đem đôi câu đối mới sáng tác nịnh, tâng bốc nhà vua nhờ Vương Nhất viết thành bức thư pháp để dâng tặng vua. Bức thư pháp treo lên, văn võ bá quan trong triều ai cũng tấm tắc khen đó là nét chữ của người tài hoa. Mỗi người bình một kiểu theo óc thẩm mĩ nghệ thuật của mình khi thưởng thức, chiêm ngưỡng văn chương, chiêm ngưỡng nét chữ tài hoa.

Một viên quan triều đình sau khi ngắm nét chữ của Vương Nhất khen nức khen nở, rồi gật gù tâu với vua:

- Tâu bệ hạ, đây là chữ của người có văn hay, có tài về văn thư, các bậc quân vương không thể không thu dụng con người này. Chữ của viên quan, tác giả đôi câu đối cả triều đình ai cũng biết rõ, thô kệch, tủn mủn nét cứng nhắc chứ đâu được thứ chữ thanh tú bay bổng như thêu mây, dệt gió như chư đôi câu đối này.

Nghe bọn nịnh thần xúi bẩy, nhà vua cho đòi lão quan tặng bức thư pháp vào triều để hỏi về người viết chữ. Trúng kế gian của lão, lão tâu với nhà vua ngay ra thân thế của Vương Nhất. Vua xuống chỉ vời Vương Nhất vào triều ở bên cạnh để lo việc văn thư giấy tờ cho vua. Ác nỗi, thời ấy người trẻ tuổi ở cạnh hầu hạ vua chúa không thể giữ lại nguyên bản cái phần “của” phàm tục trên người được. Bởi vua có hàng trăm cung tần mĩ nữ; hoàng hậu, nguyên phi, thứ phi trẻ đẹp ở các nơi do các quan địa phương cung tiến về, mình vua sức giời có hạn làm sao “mưa móc” cho khắp mọi cửa, mọi cung hàng ngày, hàng đêm. Chắc ăn nhất, người ở cạnh vua, khoẻ người, giỏi trai phải không có “của nợ” kia lủng lẳng đeo bên người. Họ sai thợ thiến, thiến luôn cái của giời cho của Vương Nhất đi, để đề phòng từ xa. Không nhỡ con vua nhưng giống má lại của thằng cha thư ký giúp việc thì có mà ngọng, mà móm; lỗ vốn với nó như chơi. Con vua, phải đúng giống má nhà vua gieo trồng, chứ giống đầu đen đít khỉ đỏ lai tạp vào, nhỡ nó được nối ngôi thì nguy cho xã tắc. Chúng nó làm phản làm loạn như chơi!

                                    

                                Phần 1

                             Cõi âm (38)

 

Người khác có con làm quan thì lấy làm tự hào vênh vang với làng, nước lắm. Với bà Vương, con được làm quan thì bà đau đơn đến đứt từng khúc ruột, bà coi đó là lỗi nhục của dòng họ Vương nhà bà, ra đường chẳng dám nhìn ai, không bao giờ bà nhắc đến tên Vương Nhất trước mặt bất kể ai. Cứ thế bà âm thầm chết cay chết đắng trong lòng trong dạ.

Vương Nhất hầu hạ cạnh vua được hơn một năm anh đã thấy chán, thấy cô đơn. Tạng người chí khí, cương trực, lãng tử như anh mà làm việc ở nơi chỉ biết gọi dạ bảo vâng, việc trái lè cũng phải vâng vâng dạ dạ cho vừa lòng vua chúa, anh không chịu nổi. Chán đời nên anh sinh ra rượu chè, thơ phú bét nhè, ngông nghênh chập mạch thi sĩ, chẳng còn biết sợ hãi thằng trên con dưới nào nữa. Vương Nhất chẳng coi lũ vua quan trong triều đình ra củ khoai củ ráy gì hết trọi. Bỏ bễ mọi công việc vua giao, hứng chí anh làm cả những bài thơ châm chích vị quan này, ảm chỉ vị quan kia, cạnh khoé, đá xoáy những kẻ nịnh thần; thậm chí làm cả thơ xỉ mắng vua là bù nhìn dốt nát; kẻ yểu tướng sợ từ cơn gió cái sợ đi để tạc thù bù khú với mấy anh lính cấm vệ dở ông dở thằng. Chuyện đến tai lão quan có tư thù với anh. Hắn thu lượm những bài thơ “làm phản” của anh đem tỉ tót tâu vua. “Nào nghĩa bài thơ này ám chỉ các mệnh quan triều đình thế này, ý bài kia miệt thị nhà vua thế khác”. Lão vua cha truyền con nối ấy là kẻ đui con mắt, què bộ não, trong đầu lão không một khái niệm về lẽ phải điều trái, nghe tâu có kẻ âm mưu phản là sai chém đầu! Vương Nhất rơi đầu cũng là do bệnh quan liêu của tên vua ngu muội ấy.

Vương Nhị, chàng trai thứ hai con bà Vương càng lớn càng khoẻ mạnh, thông minh, cũng học một biết hai, thậm chí có cái hiểu ba bốn. Thấy con sáng dạ quá bà Vương sợ rồi cũng giống người anh cả chỉ vì học giỏi mà mất cả giống lẫn má, chết vì ba bài thơ ngông. Chọn giải pháp an toàn cho con, bà không cho Vương Nhị học chữ nhiều như người anh. Vương Nhị học đủ đọc thông viết thạo là bà Vương bắt anh đi học nghề, “Tiền của bề bề không bằng một nghề trong tay”. Năm Vương Nhị mười lăm tuổi bà Vương sắm mâm lễ vật đội đầu, dẫn con đến xin học nghề một ông thợ ngoã nổi tiếng nhất vùng. Ba năm theo học nghề thợ nề và sau hai năm làm thợ, Vương Nhị đã trở thành thợ cả, đã tự tay xây và chỉ huy cả một hiệp thợ lớn, xây những ngôi chùa lớn hàng trăm gian, đắp phào trần, kẻ hoa văn nổi, hoa văn chìm, kẻ vẽ đủ tư linh, rồng chầu hổ phục, chỉ huy xây dựng cả những cơ ngơi to lớn cho các quan trong triều. Phàm con người ta đừng nên giỏi giang quá có lẽ lại hạnh phúc, lại may mắn. Để cho vua biết mặt, chúa biết tên thì chết mất ngáp rồi.

Năm ba mươi tuổi Vương Nhị được một lão quan lớn trong triều thuê hiệp thợ của anh đến xây lăng cho y trong một hẻm núi. Lăng xây cũng chẳng to tát gì lắm, bề ngoài chỉ là cái miếu thờ cỡ trung bình. Điều đáng nói là phần sau lăng miếu, phần khoét sâu vào lòng núi mới là vấn đề không thể coi là nhỏ, phần ngầm ấy mới đáng kể của công trình. Hàng trăm người thợ tài giỏi được huy động đến đó. Người khoét hầm dúi vào lòng núi, người xây lăng bên ngoài, người xẻ gỗ, người đẽo đá mất gần mười năm liền công trình mới xây dựng xong. Và cũng thật bất hạnh cho những người thợ có đôi bàn tay vàng ấy. Tiếng là lăng, nhưng thực chất đó là nơi cất giữ của cải, vàng bạc châu báu của tên quan lại tàn bạo này. Sau nhiều năm làm quan Toàn quyền ở một nước thuộc địa, hắn bòn rút cướp bóc vàng bạc châu báu của dân bản xứ đem về bày đặt việc xây lăng, xây mộ bố đẻ để cất giấu đống của cải cướp bóc được từ nước ngoài chở về. Lăng xây xong, sau bữa tiệc mừng công trình hoàn thành, hàng trăm người thợ đủ mọi ngành nghề làm việc cho hắn trúng rượu độc lăn ra chết tất cả. Họ đã chết cả rồi nhưng hắn vẫn chưa tin họ thật sự chết, còn tiếp tục sai người nhà chặt đứt đầu từng người xếp thành đống trong đó, rồi xây bịt cửa hầm, xây lấp cửa hậu ngôi miếu lại. Hắn chôn sống trong đó cả một cô gái trẻ mà trước đó hắn mua về nói là làm con nuôi, cho cô ngồi trên chiếc ngai bằng vàng ròng, trong mồm ngậm sâm Cao Ly, gắn xi “niêm phong” miệng cô lại, phòng xa linh hồn con gái nuôi bép xép, tiết lộ kho báu của hắn.

Người con trai thứ ba của bà Vương - Vương Tam cũng là một chàng trai khoẻ mạnh, thông minh, có ý chí hơn người. Khi hay tin người anh cả bị chém đầu, sợ bị liên luỵ, bị tội tru di cả nhà cả họ. Vương Tam bèn trốn chạy lên biên giới, thay họ đổi tên xung vào đội lính thú để giấu mình. Ba năm làm lính canh phòng biên giới, Vương Tam đã anh dũng lập được nhiều chiến công với đất nước. Anh tả xung hữu đột tiêu diệt nhiều toán thổ phỉ để bảo vệ các bản mường nơi biên giới. Vương Tam được quan Châu phong đất cho ba mường, còn hứa gả con gái cho anh, chỉ chờ cô gái đến tuổi biết cài trâm lên đầu thì làm đám cưới. Vương Tam chưa kịp cưới vợ đã bị bọn thổ phỉ từ bên kia biên giới lẻn sang phục kích lúc anh cùng sáu, bảy người lính đi tuần biên. Chúng đông gấp nhiều lần, ngầm đào hầm giữa đường mòn làm bẫy. Thế là cả đội tuần biên của anh bị thụt chân, rơi gọn xuống hầm sâu. Chúng bâu lại dùng câu liêm móc áo lôi từng người lên cắt cổ ném xuống hố để trả thù nhưng trận bị Vương Tam đánh cho thua những lần chúng vượt biên sang cướp bóc không thành.

Ba đứa con trai của bà Vương chết ra sao bà cũng không hay biết, chỉ biết Vương Nhất chết do nhà vua hình tội. Hình tội và chết ra sao bà cũng không được hay. Bà ở nhà mòn mỏi chờ hai người con kia trở về. Mãi chẳng thấy hai đứa về. Cho đến khi chết xuống Âm phủ gặp các con bà mới biết chúng đều chết trước bà đã nhiều năm rồi.

 

                               Phần 1

                            Cõi âm (39)

 

Chia tay bốn mẹ con bà Vương, chúng tôi đi ven qua một vườn táo để vòng lên đê. Huệ bảo lối ấy lên đê được, đi đường cũ gặp lại những người chết chém họ níu lấy hỏi đủ thứ chuyện trên trần gian lằng nhằng còn lâu mới đi nổi.

Khu vườn chúng tôi đi qua trồng toàn táo, cây nào cây ấy xoè tán xum xuê, cành nọ đan vào cành kia thành giàn quả sai trĩu trịt cao hơn đầu người nửa tầm tay với. Dưới những giàn táo có vài chục người đàn ông, người cụt một tay, người khuyết một chân, tất cả họ cần mẫn với tay lựa hái những quả táo chín bỏ vào chiếc sọt tròn đeo trước ngực. Đi qua vườn táo, vừa lên tới mặt đê thì nghe có tiếng người đằng sau gọi giật giọng, gióng một:

- Anh Phong, anh Phong, anh Phong ơi! Cho em nhờ một việc.

Tôi quay lại, Huệ cũng quay lại. Huệ hỏi tôi:

- Người này quen anh à?

Tôi chưa trả lời ngay vì chưa nhận ra người gọi mình là ai. Người đó một tay chống chiếc nạng đang ì ạch leo lên mặt đê một cách khó khăn.

Tôi bèn hỏi:

- Anh là ai, sao biết tôi?

- Em là Tịnh, Tịnh đây mà, anh Phong không nhớ em à? Trông thấy anh em nhận ra ngay. Nhờ anh nói khó giúp với tiên nữ Hồng Huệ xin Diêm vương cho em chuyển đi nơi khác, ở đây buồn lắm, chán lắm. Em muốn được ở thành phố, muốn ở thành phố. Trên trần em ở thành phố, xuống đây họ bắt em lao động vất vả khổ sở lắm em không chiụ nổi. Giúp em với, tiên nữ ơi!

Khi người đó xưng tên là Tịnh, tôi sực nhớ ra con người này.

Xin kể đôi chút về anh ta:

Một hôm, tôi đang xem tranh sơn mài trong cửa hàng mỹ nghệ ở một phố cổ trung tâm Hà Nội. Bỗng nghe tiếng ồn ào ngoài phố, ngoái ra xem chuyện gì thì thấy một người cầm cái nạng giơ lên sắp bổ xuống đầu một người mặc bộ đồ Tô Châu (đồ lính). Rất nhanh, người ấy chắp hai bàn tay vào nhau giơ lên đầu, trong nháy mắt cái nạng vụt xuống đã bị anh kẹp vào nách mình, và anh chỉ đẩy nhẹ cái nạng, kẻ đánh anh đã ngã sóng soài ra hè phố làm cái chân gỗ tuột khỏi đoạn đùi cụt dính lằng nhằng mấy sợi dây da. Quán nước bên kia đường hai gã trai trẻ hơn đứng bật dậy khỏi ghế hàng nước hùng hổ, mỗi gã dư dứ một nắm đấm chạy tới, miệng hô:

- Bà con ơi, thằng kia nó đánh anh thương binh! Tẩn bỏ mẹ nó đi…iii…!

Có điều lạ, cả hai dãy phố người buôn người bán đông vậy mà dường như chẳng ai quan tâm, duy chỉ khách qua đường tò mò dừng lại đứng xem, tuyệt nhiên không thấy ai đứng ra can ngăn một câu! Hai gã kia sấn sổ xông vào đấm tới cái nào đều bị người đó gạt tay làm cả hai ngã bổ chửng đè lên nhau bên gốc cây xà cừ, cạnh mấy chồng mũ cối bày trên tấm nylon trải chềnh ềnh giữa hè phố, chiếm hết lối của người đi bộ.

Người mặc bộ đồ lính trông quen quen, tôi chạy tới thì nhận ra đó là y sĩ Tâm, tôi gọi:

- Anh Tâm!

Tâm vừa quay sang phía tôi liền bị cái nạng của gã chân gỗ phang trộm từ phía sau trúng bả vai. Anh hơi nhăn mặt đưa bàn tay kia lên ôm lấy vai. Hai gã đàn em được thể xông tới định đánh cả tôi thì Tâm kịp xoài chân quét ngang mặt đất làm hai đứa ngã sõng soài lần nữa. Gã chân gỗ đánh trộm Tâm được một cái tưởng thế là oai, đắc thắng sấn sổ định xông vào đánh nữa, cùng lúc tôi và gã cùng nhận ra nhau. Tôi còn đang cứng lưỡi chưa thốt lên lời thì gã đã lắp bắp bằng những lời chợ búa:

- Ôi! Ð. mẹ anh Phong phải không? Ð. mẹ thằng này là thằng nào? Ð. mẹ để em cho nó vài nạng nữa chết cha thằng nhà quê này đi!

Không còn giữ nổi bình tĩnh, tôi bước tới giật cái nạng giơ tay định tát vào mặt gã, nhưng Tâm kịp lôi áo kéo lại làm tôi tát hụt. Tức sôi lên, tôi quát:

- Tịnh! Có biết ai đây không?

Mặt Tịnh thuỗn ra, hết nhìn tôi lại nhìn Tâm. Tôi nói:

- Ðây là anh Tâm, y sĩ tiểu đoàn, người đã băng bó và tha tội tự thương cho mày hồi ở chiến trường đấy! Nhớ không?

Nghe tôi nói thế Tịnh xìu mặt lại lấm lét, sượng sùng như muốn cất cái mặt đi mà không biết cất vào đâu bèn quay ra đổ tội cho hai thằng đàn em đang tựa người vào gốc cây với bộ mặt cũng đần thối như Tịnh. Tịnh quát:

- Hai thằng kia… biến! Ai cho phép chúng mày láo lếu với hai ông anh của tao?

 

                                            

 

                                Phần 1
                             Cõi âm (40)


                Mùa mưa năm 1969, tiểu đoàn chúng tôi chốt giữ, bảo vệ tuyến vận tải thuộc tỉnh K để các đơn vị vận tải chuyển vận quân lương, vũ khí vào tuyến trong dự trữ chuần bị cho chiến dịch mùa khô tới. Lợi dụng mùa mưa địch đổ bộ đường không nống ra lấn đất dồn dân lập ấp, đóng bốt cài răng lược để gây thanh thế, để lên gân rằng chính quyền của họ đang nắm nhiều dân, chiếm được nhiều đất, và chưa bị suy yếu sau Tết Mậu Thân. Tuyến đường chạy dưới chân khu đồi cỏ gianh trọc lốc đỏ trơ lở loét do đạn bom đủ loại cày xới liên tục ngày đêm làm cho cây cỏ chưa mọc kịp để phủ màu xanh cho mặt đất. Cụm cao điểm ấy, bên kia coi là tấm cửa thép để ngăn đường vận chuyển, chuyển quân của ta nên họ quyết tâm chiếm giữ để chốt chặn. Bên ta thì quyết tâm chốt giữ để thông đường cho bộ đội hành quân và vận chuyển hậu cần. Ngày cũng như đêm bom đạn triền miên trút xuống đầu các chiến sĩ giữ chốt. Nếu để địch chiếm được một hay hai cao điểm, đóng trên đó một đại đội, đặt vài khẩu pháo cối là ngày đêm họ có thể bắn khống chế, cho quân càn quét tạo ra một vùng trắng. Các loại xe vận tải chở hàng, chở vũ khí cùng các đơn vị không thể hành quân qua đó để vào sâu tuyến trong được. Suốt từ đầu mùa mưa tiểu đoàn chúng tôi với ba đại đội theo biên chế chính thức, cộng vài đơn vị tăng cường hoả lực của trung đoàn thay nhau ngày đêm chốt chặt các ngọn đồi trơ trụi ấy, thương vong không thể gọi là ít. Chưa đầy ba tháng mà đã hai lần phải bổ xung quân số.
Tôi được cử trợ giúp cho văn thư tiểu đoàn đặc trách đi theo y sĩ Tâm bảo vệ thương binh, bảo quản quân, tư trang của liệt sĩ để khi có xe ôtô vào đón thương binh thì bàn giao cho họ và gửi số ba lô tư trang của liệt sĩ về hậu phương cho gia đình họ, cả làm một số công việc thuộc về chính sách khác.
Hôm ấy, từ đại đội 5 khiêng lên một cáng thương. Y sĩ Tâm mở băng kiểm tra vết thương cho người vừa từ dưới đại đôi cáng tới, vì dưới đại đội chỉ mới sơ cứu ban đầu, băng bó còn sơ sài có tính chất cầm máu tạm. Bao giờ tiếp nhận thương binh Tâm cũng kiểm tra, rửa kỹ vết thương, thay lại băng mới cẩn thận trước khi bàn giao cho đơn vị vận tải chuyển về tuyến sau. Người bị thương ấy là Tịnh, cùng ở với tôi trước đây mấy tháng, khi tôi còn công tác dưới đại đội.

Y sĩ Tâm tháo hết băng cũ ra rồi mà vẫn thấy anh loay hoay xem đi xem lại vết thương mãi mà chưa bảo y tá lau rửa và thay băng.
Bỗng Tâm kéo tôi ra một nơi bảo:
- Theo mình, chiến sĩ này tự thương Phong ạ.
- Tôi hỏi lại Tâm:
Liệu anh có nhầm không?
Y sĩ Tâm khẳng định:
- Nhầm sao được. Rõ là vết thương của người tự làm mình bị thương. Vết thương không phá rộng mấy, còn ám khói đạn đen cả phía đạn xuyên vào; phía đạn chui ra cũng khói ám đen  các xơ thịt, cả ngoài vải quần. Ðạn địch bắn từ xa khói không ám vào vết thương được. Phong gọi điện hỏi dưới đại đội cho rõ trường hợp bị thương của chiến sĩ này. Nếu đúng anh ta tự thương thì lập biên bản gửi sang quân pháp họ xử lí. Mà lạ, sao không thấy dưới đại đội viết giấy chuyển thương gì nhỉ?
Tôi lên sở chỉ huy tiểu đoàn gọi điện xuống đại đội để hỏi, dưới đó báo lên Tịnh nghỉ ở tuyến sau đem súng ra lau, súng cướp cò nên bị thương, dưới đại đội chưa có điều kiện xác minh. Nghe tôi báo cáo xong, y sĩ Tâm liền bảo:
- Ðúng tự thương rồi, đến dân quân du kích cũng không đến nỗi để súng cướp cò nữa là lính chính quy đang chiến đấu ở chiến trường, ngày đêm cây súng kè kè trong tay? Vô lý! Ðồng chí cứ ghi vào giấy chuyển thương là tự thương đi, không cần xác minh nữa. Nào chúng ta lập biên bản.
Rồi Tâm lẩm bẩm một mình:
- Vết thương này có nguy cơ hoại thư mất, không thể bảo tồn được vì cự ly viên đạn bắn quá gần, sơ cứu ban đầu không được tốt, vô trùng kém, lại ga rô quá lâu, cả không đước chăm sóc theo quy trình của việc ga rô. Chắc phải tháo khớp mất!
Anh phẩy tay ra quyết định:
- Gửi nhanh về hậu tuyến cho ngoài đó xử lí.
Nghe Tâm nói vậy tự nhiên tôi thấy thương Tịnh. Chịu đựng được ba tháng gian khổ giữa khói lửa, bom, đạn rồi, chỉ thời gian ngắn nữa, mùa khô tới chiến dịch mở, quân ta đánh mạnh trong kia là ngoài này không còn ác liệt nữa, không gắng chịu đựng, đi tự huỷ hoại cơ thể mình thì coi như là kẻ phản chiến. Cầm chắc phải ra trước toà án binh. Nghĩ thế, thấy thương Tịnh nên tôi xin với Tâm:
- Thôi anh Tâm ạ, tha cho hắn, hắn còn trẻ nên kém suy nghĩ. Đời hắn còn dài, mất một chân là thiệt thòi cho hắn rồi, còn ôm thêm án tự thương phải ra toà án binh, phải đi cải tạo, rất dở cho cuộc đời của hắn sau này. Mà ở chiến trường bị thương hay tự thương có khác gì nhau. Chui vào chốn bom gầm đạn xé ngày đêm như này là dũng cảm rồi !
Tâm trừng mắt cự lại tôi:
- Khác chứ! Tự huỷ hoại cơ thể mình không những làm mất sức chiến đấu của bản thân mà còn làm ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của đồng đội khác.
Thấy tôi đăm chiêu suy nghĩ. Tâm hỏi:
- Chiến sĩ này người nhà cậu à?
Lúc ấy dường như tôi vô cảm. Cất mồm vâng mà không hiểu mình vâng dạ để làm gì? Tôi lấm lét nhìn trộm Tâm. Tâm thì đang đưa mắt nhìn ra cánh rừng cháy trước mặt. Một cánh rừng tan hoang, cây cối đổ ngổn ngang chất chồng lên nhau. Chỗ thì sườn đồi, nơi thì hốc đá khói xanh, khói trắng, khói đen âm ỉ mù mịt như nghia địa mênh mông đầy hương khói. Tôi bâng lâng dõi theo ánh nhìn của Tâm. Trên sườn núi những bông hoa chuối rừng đang trổ lên trời những bắp hoa đỏ cời từ những thân cây xơ tướp lá, cọng chuối xơ xác tua tủa như những cánh tay gầy guộc quờ với trời xanh. Tâm thốt lên:
- Hoa chuối, ôi những bông hoa chuối trỗ đỏ đẹp làm sao. Chẳng thể bom đạn nào huỷ diệt được sự sống trên mặt đất này một khi những cây chuối kia muốn đơm bông sai buồng sai qả! Nếu một năm sau chúng mình có dịp qua đây, cánh rừng này lại xanh tươi như vốn nó đã từng xanh. Chiến tranh huỷ diệt nó, nhưng nó cũng biết cách làm xanh lại mình ngay sau đó để đắp bù cho bản thân, trả lại cho rừng màu xanh tươi, những thung lũng chuối rừng vốn có.
Tôi có cảm giác như mình lạc giữa rừng hoa chuối đỏ chứ không phải cánh rừng xác xơ vì đạn bom tàn phá. Chim trời vẫn từng tốp sải cánh lượn vòng hợp đàn, đậu xuống những thân cây sống sót giơ những đám cành khẳng khiu vẫy vào trời xanh. Ðàn vượn ẩn mình đâu đó thỉnh thoảng lại hú vang gọi đàn vọng từ vách đá nọ chuyền cho vách đá khác như có người nhắc lại. Chiều tối và đêm khuya tiếng tắc kè ném lưỡi vào đêm réo mưa gọi nắng. Nửa đêm về sáng tiếng chim từ quy vẫn lảnh lót gọi bạn tình “Chót bóp… chót bóp…”, gây nỗi nhớ nhà da diết. Mặc bom gầm, mặc đạn xé. Ngớt bom đạn dòng suối lại trong, những nụ hoa sống sót lại nở bông đẹp như thường ngày hoa vẫn nở…

 

 

 

 

                                Phần 1

                            Cõi âm (41)

 

Trong hầm cứu thương bỗng vẳng ra tiếng kêu: “Ối đau, ối đau” của Tịnh. Chắc y tá lau rửa vết thương, đau nên Tịnh kêu. Tiếng kêu ấy nhắc chúng tôi trở về với thực tại.

- Chiến sĩ này anh em thế nào với Phong? - Tâm hỏi.

Tôi vẫn vô thức trả lời:

- Em họ!

- Thế thì tuỳ cậu!

Thực tình không phải vậy. Tôi và Tịnh ở với nhau hồi huấn luyện tân binh ngoài Bắc, vào chiến trường ở cùng đại đội một thời gian nên chúng tôi thân nhau, nay thấy Tịnh dính chuyện tày trời, thương Tịnh tôi làm vậy.

- Cấp trên phát hiện ra là cậu chịu kỷ luật đó.

- Vâng!

Tôi lại vâng! Sau câu vâng vô thức và cái tặc lưỡi liều mạng vô trách nhiệm với một suy nghĩ tiêu cực: “Mình có râu có tóc gì đâu mà sợ ba cái kỷ luật lẻ tẻ. Bom gào đạn xé ngày đêm thế này chắc gì giữ nổi “gáo” để mà nhận kỷ luật! Gói xác trong tấm tăng, mảnh võng rồi thì ai lỡ đào mình lên đem đi xử bắn nữa mà sợ… thông qua đi”!

Mấy ngày sau đó địch liên tiếp nống ra đánh chiếm các chốt, cuộc chiến đấu của toàn tiểu đoàn trở nên căng thẳng suốt ngày đêm, trạm quân y tiểu đoàn lúc nào cũng có thương binh đến, thương binh về tuyến sau liên tục. Công việc nhiều, vả lại cũng không thấy dưới đại đội có biên bản gì nói về việc tự thương của Tịnh. Vì cả đại đội ấy từ cán đến binh mải lăn như bống giữ chốt, thời gian đâu ngồi mổ xẻ lập biên bản chuyện vặt về một kẻ hèn nhát.

Nhớ lại chuyện cũ, tôi giật mình khi nhìn thấy chiếc huy hiệu thương binh đeo trước ngực Tịnh. Nó chính là của thật một trăm phần trăm do sự liều lĩnh của tôi mà nhân dân gắn nhầm lên ngực Tịnh. Chính tôi là kể góp phần lừa dối nhân nhân, gây hậu quả cho Tâm hôm nay, và suýt nửa cả tôi cũng lĩnh đủ mấy cán nạng của hắn. Còn Tịnh, mặt hắn vẫn trơ tráo câng câng ưỡn ngực giơ cái huy hiệu như đập vào mặt mọi người, ưỡn cả vào mặt tôi và Tâm:

- Vậy hả? Cho xin lỗi! Đúng là đánh nhau vỡ đầu mới nhận ra là anh em!.

Trong đám người đứng xem, một người hiểu ra sự việc nói:

- Hoá ra các ông này là bạn của nhau!

Rồi họ thì thầm gì đó với nhau và tự động giải tán. Trước khi đi họ ném vào chúng tôi những ánh mắt không mấy cảm tình, có người còn nhổ đánh toẹt bãi nước bọt xuống rãnh thoát nước rồi mới đi.

Tôi nắm cánh tay Tâm, thấy bắp tay anh không được rắn chắc, có cảm giác nhũn và teo. Một bà bán hàng rong gần đó đưa cho tôi lọ dầu gió bảo tôi xoa cho Tâm. Bà nói khẽ với tôi:

- Các bác dây với hủi chỉ thiệt thân thôi, chúng tôi bán hàng ở đây hàng ngày thấy gai mắt lắm nhưng vẫn phải coi như mình bị điếc bẩm sinh. Chúng bán mũ cối giả, kính giả, áo bay giả, thậm chí cả đồng hồ giả lừa người không sành mua sắm. Sờ vào hàng mà không mua là chúng gây chuyện, là chửi là đánh người ta, cậy thế mà…

Khi tôi cởi khuy, vén áo ngực Tâm ra để xoa dầu vào chỗ đau mới biết vai anh có một vết thương làm lép một bên vai. Vết thương ấy Tâm bị đạn xuyên từ thời kháng chiến chống Pháp, giờ lại bị kẻ hèn, từng là đồng đội đánh bồi thêm.

Chuyện Tâm bị đánh hôm ấy đúng như bà bán hàng rong nói. Tâm đi qua, thấy mấy chồng mũ cối bày bán trên hè tưởng mũ cối thật định mua về đội cho bền. Xem kĩ nhận ra là mũ cối giả, anh không mua thế là Tịnh gây gổ và đánh anh.

Ở nơi chợ búa thì Tịnh buôn bán gian lận, bịp bợm, về nơi cư trú thì sách nhiễu, gây phiền hà các cơ quan làm chính sách. Nay xin cấp nhà này mai đòi đổi nhà khác, mè nheo đủ kiểu chuyện rắc rối. Tịnh chết do một lần lừa bán mũ rởm cho một kẻ đầu gấu. Tên này mua về đội mấy ngày sau gặp mưa, mũ thấm nước nhũn ra, hắn đem đến bắt Tịnh phải đổi trả hắn mũ cối Tàu thật một trăm phần trăm. Tịnh không nghe, hai bên kéo bè đảng đến dàn quân đánh nhau, Tịnh bị bọn đầu gấu lỡ tay đánh chết. Kẻ đánh chết Tịnh sau đó bị án tử hình. Hắn bị tử hình do tội giết người ở một vụ án khác, gộp lại mà thành bản án nặng. Nghe đâu kẻ đầu gấu kia xuống Âm phủ còn nhớ chuyện cũ, lâu lâu lại kéo “hội” tìm Tịnh để đánh. Hắn cho rằng hắn bị tử hình là do Tịnh gây ra cho hắn. Bọn tiểu nhân ấy thù hằn nhau đến dai, ra ma cả với nhau rồi vẫn lòng đầy thù hận! Lấy thù hận giải thù hận thì sẽ hận thù nhau còn lâu, có thể là mãi mãi. Buồn thay!

Trong khi tôi ôn lại chuyện cũ về Tịnh, Huệ cũng giở Gương Quá Khứ Hiện Về ra xem. Xem xong Huệ không nói gì, cầm tay tôi lôi đi rất nhanh, rất nhanh. Ði một quãng xa nhìn lại thấy hai tên quỷ đầu trâu mặt ngựa đang xốc nách Tịnh lôi trở lại vườn táo. Huệ bấm nút Gương Quá Khứ Hiện Về chìa cho tôi xem. Trong gương hiện ra một gã hèn nhát ngồi bó giò trong hậu cứ rê họng súng tìm điểm bắn vào chân mình. Lúc y gí họng súng lên mu bàn chân, lúc gí vào bắp chân, lúc gí vào bắp đùi. Ngập ngừng mấy bận mới quyết định bóp cò vào bắp chân. Không hiểu do kém hiểu biết về cơ thể người, hay do cố tạo một vết thương thật nặng, Tịnh đã bắn chệch vào xương ống chân, làm vất vả bao người phải trèo đèo lội suối vượt hàng trăm cây số khiêng hắn từ mặt trận về quân y hậu phương….

 

                                        

 

                                  Phần 1

                              Cõi âm (42)

 

 

Trên bờ sông vắng, một bãi sông rộng bạt ngàn tre và xoan. Cây xoan, tre nào cũng sắn dây leo bám chùm kín tới lưng cây một búi. Chạy dọc ven bờ sông, một lối mòn nhỏ ngoằn ngoèo đang ba đoàn người mỗi đoàn đi cách nhau quãng một, người nào người nấy mình trần trụi mắc sợi dây chão trên vai gò lưng, cong người úp sát mặt cỏ kéo ba cái thuyền buồm ngược dòng sông. Ba con thuyền chở đầy đá hộc, thuyền nào cũng có ba tên quỷ đầu trâu mặt ngựa ngồi quây tròn trên sạp thuyền uống rượu cùng nhau. Bên mạn thuyền phía bờ sông một người đẩy sào, liên tục chống cây sào vào bờ, cong người đẩy ngược dòng nước hỗ trợ thêm cho những người kéo dây trên bờ. Chẳng hiểu bọn quỷ ngồi để canh thuyền đá hay để ốp thúc đoàn người kéo thuyền làm việc cho nghiêm túc? Trong đoàn kéo thuyền có một người trông hơi quen quen. Tôi đang moi trí nhớ để nhớ ra con người này thì hắn đã ngước lên nhìn tôi và reo to:

- Ơ Phong, mày cũng xuống đây rồi hả? Mày làm gì, có được làm nghề cũ không? Còn tao là cán bộ trên trần gian nhưng khi xuống đây Diêm vương bắt làm khổ sai kéo thuyền thế này có bố láo, bố toét không? Trên trần gian máy nổ Ði- ê- zen (diesel) bao nhiêu sức ngựa, sức tải mà chả có. Tao đề nghị: một là Diêm vương mua, không để tao gọi “điện thoại” báo mộng cho người nhà lên phố Hàng Mã, Hà Nội mua vài cái gửi xuống gắn vào thuyền cho nó chạy khỏi phải dùng sức kéo của những vong hồn, vất vả lắm. Các lão không nghe, bảo tao là lười biếng quen thân xác, bắt bọn tao khổ sai rong ruổi kéo dây ròng rã hết ngày này qua ngày khác đoàn thuyền này. Mẹ kiếp! Diêm vương, Hà bá có khác, bảo thủ bỏ mẹ! Kiếp sau tao thề, sẽ trốn ngay từ đầu, không thèm xuống đây nữa. Ở đây mọi trật tự nơi trần gian bị đảo lộn ráo trọi, ức không chịu nổi!

Ðó là Thó. Về con người này, khá nhiều chuyện bi hài…

Thông qua người bạn nào đó gã biết số điện thoại của tôi, thỉnh thoảng gã lại gọi mời tôi tới nhà gã chơi. Mãi lâu sau tôi mới có thời gian rảnh rỗi để đến nhà gã. Nhà gã ở một khu phố vừa được đô thị hoá từ đất nông nghiệp chuyển đổi hình thức sử dụng chia chác đánh bùn sang ao biến thành đất tư cho các quan chức hành chính trong tỉnh xây nhà riêng. Biển đề là phố nhưng thực ra chỉ là cái ngõ nâng đời thành phố cho dân được làm sang; nếu định nghĩa cho đúng về đường phố. Hai dãy nhà hình ống, cái loi choi thò ra vừa như khoe của vừa như để tranh hơn. Cái biết phận mình chức bé, quyền nhỏ, lương thấp, tiền ít khúm núm tự thụt vào nấp sau đám cây cảnh để ẩn dạng ẩn hình cho đúng với thân phận. Người tinh ý khi đi qua con phố này nhìn dáng nhà, nếp cửa nhận biết ngay ai cấp thấp, người cấp cao, kẻ nào lắm của tiền bằng sự sắp đặt ngẫu nhiên về thẩm mỹ kiến trúc. Kiểu kiến trúc pha tạp, véo kiểu ông Tây một tí, bẹo kiểu bà Tàu một tẹo; râu ông Hàn cắm cằm bà Nhật: cũng cột giả, vòm cong, khung nhôm kính màu, hoa văn tô trát chim cò rắc rối, trông vừa phản cảm vừa gây ý nghĩ lệch. Thường xuyên bị những nét kẻ vẽ sặc sỡ, cứng quèo vả vào đồng tử như thế gì mà đôi mắt trẻ em chẳng sớm kính cận, người già chẳng loạn thị và mắc troét (Stress).

Nhà tôi cần tìm cũng hao hao, anh em sinh ba sinh bảy với số ngôi nhà thụt vào trên con phố đó. Tôi ấn nút chuông gọi cửa, rôig đứng chờ. Khá lâu mới thấy cái lỗ tò vò tròn xoe hất mảnh tôn che ra và một con mắt nhòm ra soi mói từ đầu đến chân tôi. Sau đó “vứt” qua lỗ tò vò một câu tròn vo bốn tiếng:

- Bác hỏi nhà ai?

Tôi mau mắn đáp:

- Tôi hỏi anh Thó!

- Thó là tên nhà em hồi ở quê. Giờ nhà em tên là Thọ. Bác ở quê ra ạ?

Tiếng Việt biến hoá thật tài tình, chỉ đổi mỗi dấu sắc sang dấu nặng làm cho cái tên hay hẳn, còn có thể sống lâu trăm tuổi nữa! Mẹ gã ngày xưa đi lấy đất thó (đất sét) về nặn đầu rau để tết ông công ông táo thay vua bếp mới, đẻ rơi gã tại nơi lấy đất, bèn lấy tên Thó đặt cho gã, ý muốn có đứa con hiền lành như đất. Nhưng chữ Thó còn một nghĩa chỉ việc ăn trộm vặt: “Bông sen trắng nõn trắng tinh thó về...”. Cái tên ấy vận vào đời gã. Mười lăm tuổi gã đã là một tay bợm thó. Gã thó từ phẩm oản trên chùa, đến đấu gạo, ổ trứng gà của khắp mọi nhà trong làng, người lớn không mấy ai hay biết về việc trộm vặt của gã, lũ trẻ chúng tôi thì biết khá tường tận, nhiều khi còn bị hắn rủ rê. Cô giáo dạy lớp chúng tôi có bìa tem phiếu cất trong cặp để khi dạy xong về qua cửa hàng thực phẩm mua lít nước mắm về ăn, cũng bị Thó… thó mất. Khi xếp hàng đến lượt mở cặp không thấy tem phiếu đâu, chưng hửng về không. Cả nhà cô bữa đó phải ăn cơm rau chấm nước muối. Nghe cô giáo kể lại cả lớp đều thương. Riêng bộ mặt Thó vẫn nhơn nhơn không hề gợn chút xúc động.

 “Chỉ thằng Thó”. Ai cũng nghĩ thế và thì thầm vào tai nhau, lườm nguýt về phía Thó cho bõ tức chứ làm gì được khi không bắt được quả tang tên kẻ cắp.

- Vâng, tôi tới thăm anh Thọ.

Chắc trông tôi không đến nỗi giống quân “thấy gì là thó” nên cửa được mở ngay rộng cánh:

- Em mời bác vào chơi, nhà em đang bận chút việc…

 

                                    

     

                              Phần 1

                           Cõi âm (43)

 

Tiếng mõ dội vào tai tôi đều đều, năm tiếng cốc kèm một tiếng keng (chuông điểm). Thầy thế tôi buột mồm hỏi:

- Nhà mình gần chùa hả chị?

- Không, nhà em đấy ạ.

Không hiểu do Thó, hay vợ Thó muốn khoe cái bàn thơ Phật mà dẫn tôi lên thẳng tầng ba. Vì đi theo chủ nhà, làm theo chủ nhà, chủ nhà bỏ giầy dép dưới tầng một đi chân không lên, tôi cũng làm theo nên chúng tôi đến sau lưng Thó, không hề nhìn lại thó vẫn biết tôi vào. Tay đang liên tục gõ cốc cốc vào cái mõ nhỏ, Thó gõ một nhát xuống chiếu phía tay phải mình. Vợ Thó biết ý chắp vội hai bàn tay trước ngực quỳ xuống chiếu. Nhát thứ hai Thó gõ xuống bên trái. Là người chậm hiểu về ngôn ngữ kí hiệu nên tôi vẫn đứng trân trân ngắm bức hình Phật bà Quân Âm do thợ vụng vẽ trên kính với đôi mắt vô hồn đang nhìn đi đẩu đi đâu chẳng hề giống những pho tượng cổ trong các chùa, dù tôi đứng ở bất cứ góc độ nào cũng cảm thấy các vị Phật đưa mắt nhìn theo mình. Mới thấy các nghệ nhân dân gian xưa thật tài hoa, tô đôi mắt tượng có thần khí và có hồn cốt bao nhiêu. Vầng hào quang điện xoay xoay sau gáy tượng cùng những cái bóng điện nhỏ như hạt đỗ nhấp nháy đủ màu xanh, đỏ, tím, vàng đuổi nhau chạy từ ngực lên đầu, lại từ đầu xuống ngực như gõ vào thị giác khi nhìn vào, làm tôi rờn rợn, chờn chờn, hãi hãi mà tin tin, mà ngưỡng ngưỡng (tín ngưỡng) theo gia chủ vài giây. Thó gõ nhát thứ hai tôi vẫn đứng nghĩ vơ nghĩ vẩn, tiếp nhát thứ ba tôi vẫn đứng trơ thổ địa giương đôi mắt ếch nghĩ đi đẩu đi đâu, cả ý nghĩ của tôi cũng đẩu đâu nốt!

Những dịp đầu xuân rảnh rỗi tôi cũng đi tham quan các chùa chiền để thưởng ngoạn những nét chạm trổ tài hoa của ông cha thể hiện trên tượng Phật và các đồ thờ cúng nơi đình chùa. Vì là người không ham hưởng của phù vân, thứ của không mất mồ hôi mà có nên tôi chẳng cầu xin thánh thần, Phật phiếc bao giờ, thành thử tôi không quen sì sụp quỳ bài bái lễ dưới đất để xin xỏ các vị ấy, dù người ta đồn thổi chùa này linh, đình kia thiêng, đền nọ ứng nghiệm, cầu gì được nấy cả tài lẫn lộc! Vì tò mò tôi đến ngắm ngó chứ chẳng cầu xin gì ở những “thế lực” ảo huyền ấy.

 Thó vẫn bàn tay trái xoè thẳng, ngón tay cái áp ngực, bốn ngón tay còn lại thẳng hàng hướng lên ban thờ, tay phải liên tục gõ mõ, gõ chuông, miệng liến láu đọc những câu trong quyển kinh dày cộp mở sẵn một tràng: “Tu lị, tu lị, ma ha tu lị, tu tu lị, ta bà ha… Tu đa lị, tu đa lị, tu ma lị, tu ma lị, ta bà ha”... làm cái đầu đặc quánh mỳ ăn liền của tôi chịu cứng không hiểu nổi ý nghĩa uyên thâm những câu “tu li, tu lị” huyên thuyên xích đế từ mồm dẻo quèo quẹo của Thó đang đọc là gì. Và tôi nhớ ngày xưa hễ thấy ai đi lễ chùa là Thó  chế giễu họ bằng câu: “Nam vô a di đà mật, nước Nam vô Phật...”.

Ðứng một lúc hai chân mỏi rời, ê ẩm, tôi đánh mắt nhìn lên cái kim dây đồng hồ trên tường đang chạy giật cục mãi mới hết một vòng càng thêm sốt ruột. “Trên đời không gì đau khổ bằng chờ đợi”. Câu văn này của ai nhỉ? Hình như của Vũ Trọng Phụng. Chữ “đau” liền với chữ “khổ” lúc này hợp cảnh ngộ mình thế! Hai chân đã tê dại, mặt nóng bừng bừng, mắt hoa, đầu như có vật gì nén căng muốn vỡ. Tôi phải vặn người, vươn vai, khua chân múa tay cho máu lưu thông.

Như một vị chỉ huy nghiêm khắc đến lạnh lùng, Thó ra lệnh thêm:

- Quỳ xuống!

Thấy tôi chưa quỳ, vợ Thó nhắc:

- Nhà em bảo bác quỳ lễ phật đi, chứ người hành lễ, người đứng xem phải tội chết!

 

                                      

 

                               Phần 1

                            Cõi âm (44)

 

 

Vị Phật thần thông nào đã cải tà quy chính được kẻ hỗn hào như Thó trở thành ngoan đạo hôm nay thật là điều lạ? Chả bù xưa kia, oản cúng trong chùa, gà cúng trong đình, nhà sư lơ là, cụ từ không để ý là bị Thó “đột kích” vào bê luôn cả con chui vào ruộng mía ngồi ăn. Thời học cấp hai, Thó học gần như hai năm một lớp, riêng lớp bảy phải mất ba năm. Chỉ được cái tài trộm vặt. Ði làm ở đâu thấy hở thứ gì là thó thứ ấy đem ra quán nước đổi lấy bánh rán, kẹo lạc, thuốc lá, nước trà để uống, ăn và hút. Thó chẳng làm đâu được lâu. Mấy án kỷ luật về tội thó vặt của công, của tư, bị thải hồi trả về địa phương. Sau đó chẳng ông uỷ ban xã nào dám chứng nhận lý lịch cho Thó đi thoát ly nữa. Thó lên thị xã ở theo diện KT3. Bẵng đi trên hai chục năm không gặp nhau, nay gặp lại, Thó bỗng có máu mặt sánh bằng thiên hạ giữa phố phường đông đúc, lại trở thành Phật tử ngoan đạo tu tại gia nữa! Thế này thì, cho dù chúng tôi có sống vài kiếp cũng chẳng thể theo kịp, sánh kịp Thó. Tôi đang định chào để ra về thì Thó ngừng tay gõ mõ, mặc nguyên áo dài nâu đứng dậy nắm lấy tay tôi vồn vã:

- Ðang tụng giở phẩm kinh, thông cảm nhé. Gớm, mình mong ông đến đỏ cả hai mắt đây này.

Thó quay sang nói với vợ:

- Mình đi mua cho chúng tôi cái gì đánh chén đi.

Vợ Thó bảo:

- Hôm nay ngày ăn chay anh ạ!

Thó bảo:

- Gặp bạn cố tri, ta phá lệ!

Sau này, có dịp gặp những người khác tôi mới biết không phải mình tôi vinh dự được Thó mời tới nhà, mà tất cả mọi người quen biết, thân sơ thời để chỏm đều được Thó tuần tự mời đến thăm nhà, kể từ khi Thó xây được cái nhà ba tầng toạ lạc ngay đầu thị xã. Bạn bè ai cũng mừng cho Thó: “chú khoẻ anh càng mừng”. Nhưng cũng có vài người hẹp bụng, ghen tị dò tìm cái sự giàu của Thó để khi ngồi vào chiếu rượu có chuyện mà cười cợt, chế giễu cho ngon rượu, cho vui bữa chén để mua vui trong lúc hết nhẵn trò vui lúc đình đám hội hè mỗi khi về làng.

Sau khi bôn ba nhiều các công trường, chẳng trụ đâu được lâu vì cái tính tắt mắt cố hữu, Thó tự rút ra kinh nghiệm rất đời, “rất kinh tế thị trường”. Thó thổ lộ cho bạn bè cái ý nghĩ mình đúc kết, tích góp được trong “hộp đen” não bộ:

- Bố mẹ đẻ chẳng có chức quyền cho mình nhờ cậy thì kiếm cô vợ, bố mẹ có chức có quyền mà cậy nhờ. Cứ có bố vợ mẹ vợ làm to là nên người ngay tấp lự! “Nhà mặt phố, bố vợ làm to” là đổi đời liền!

Nghe Thó thổ lộ tâm can thế, có người bảo:

- Tình yêu hạnh phúc mà âm mưu, toan tính thì còn gì là vẻ đẹp, là ý nghĩa của tình yêu, hạnh phúc?

Thó đả phá lại ý kiến trên rằng:

- Quên béng cái túp lều gianh với hai trái tim vàng của các cụ ngày xưa đi cho nhanh!

Và Thó giải thích chữ “tông” nghe mới ngáo ngơ, trơ tráo:

- Các cụ nhà ta ngày xưa còn “kinh tế thị trường” gấp trăm lần chúng ta bây giờ! Cứ suy câu “lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống” thì rõ. “Tông” là cái quái gì chứ? Chẳng lẽ là cái tông đơ cắt tóc hay chuôi con dao tông của làng rèn Ða Sĩ hả các “bố”? Ép cậu thiếu niên 15, 16 tuổi chưa vắt nổi con trâu đi đúng xá cày, cưới “chị” vợ 20, 25 tuổi để lấy người về cày cấy mấy mẫu ruộng, mà chị vợ ấy thường là con nhà giàu, khi về nhà chồng sẽ đem theo của hồi môn mấy sào ruộng, đôi khuyên tai vàng mấy đồng cân, chuỗi xà tích bạc có quả đào đựng vôi đeo lủng lẳng kéo trĩu cả cạp váy, cả thêm vốn riêng vốn tây nữa chứ! “Tông” là những thứ đó chứ gì?

Nghĩ sao Thó làm y vậy. Ước nguyện của Thó được như ý ngay sau đó vài năm lên sống ở trên thị xã. Nhờ lộc nhà vợ Thó có việc làm, được nhập hộ khẩu chính thức vào thị xã, con người Thó oách lên vài bậc!

Văn hào Pháp Môlie ở thế kỷ thứ 17, bằng ngôn ngữ hài kịch ông đã lưu manh hoá một gã thượng lưu để chế giễu thói bịp đời, dâm đãng, tham lam, keo kiệt, lừa lọc của giới quyền chức nước Pháp. Ở ta, những năm 1930 thế kỷ 20 nhà văn Vũ Trọng Phụng bằng bút pháp trào lộng ông đã thượng lưu hoá thằng lưu manh Xuân Tóc Ðỏ làm cho một số người có tật giật mình, vì thế họ kiêng, họ sợ văn ông, vu cho ông theo chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ để vùi dập văn ông hòng giấu lẹm sự dốt nát của bản thân để dễ bề trí thức hoá những cái bằng chuyên tu, tại chức sau này. Họ có biết đâu, văn học hiện thực phê phán giai đoạn những năm 30 - 45 nếu thiếu chùm tác phẩm của Vũ Trọng Phụng thì nền văn học đó chẳng còn hình hài gì nữa để đáng tự hào. Giữa buổi giao thời nhiều biến động đổi trắng thay đen, thì lịch sử lúc nào cũng vô cùng công bằng theo cái lẽ tự nhiên vốn có: “Ðã đi qua cả thời Giông Tố/ Qua một thời Cơm Thày Cơm Cô/ Còn để lại bao Thằng Xuân Tóc Ðỏ/ Cứ nghênh ngang cho đến tận bây giờ” (thơ Xuân Sách). Bước sang thế kỷ 21 rồi, hễ ra đường là cụng đầu, va trán cha con thằng Xuân Tóc Ðỏ còn kinh sợ hơn cả nguyên mẫu Xuân Tóc Đỏ của Vũ Trọng Phụng!?

 

                                    

 

                               Phần 1

                            Cõi âm (45)

 

Thó có ông chú ruột bỏ làng vào xứ Nghệ làm ăn, lấy vợ sinh con đẻ cái trong đó. Con ông chú sinh ở đất chăm học nên họ đều học hành đỗ đạt và ra công tác cả ngoài Hà Nội. Một lần về thăm quê, Thó có địa chỉ của họ. Thó tìm đến thăm chơi, người em con ông chú nhận họ, còn Thó nhận… hàng. Một thời gian qua lại chén chú chén anh thân tình, người em họ tên Tho ấy cho Thó cái bằng tốt nghiệp cấp ba không dùng đến. Ðã có bằng cử nhân, thạc sĩ rồi thì ai cần gì bằng cấp ba nữa. Xin được cái bằng, Thó chỉ hạ cái dấu chấm xuống đít chữ O là được cái tên Thọ ngon lành. Ðội ơn cái dấu “chấm” thiên thần ấy mà Thó vừa loại bỏ được cái tên xấu xí vừa không mất công đi học bổ túc văn hoá ngoài giờ cho sau này Thó kiếm được cái bằng đại học tại chức ngon ơ ớ ờ để thăng tiến.

Nhờ cơ chế sống lâu lên lão làng, thêm tác động của ông bố vợ làm quan mà Thó từ nhân viên bảo vệ quèn leo tót lên phó phòng hành chính, lo cơm áo gạo tiền cho mấy trăm con người của nhà máy. Trưởng phòng, rồi phó giám đốc, và chễm chện trên ghế chánh giám đốc cái vèo như tên lửa vượt Ðại dương; bổng lộc chảy vào nhà Thó dễ như vặn vòi nước công cộng vào đôi thùng, rồi chỉ việc gánh về nhà. Khi đã lắm của nhiều tiền, Thó nghĩ ngay đến việc “bảo tồn” số tiền của đã có mãi mãi. Thó kí thác tâm thành vào cửa Phật, cửa Thánh mong của cải không rơi rớt mà thêm phần sinh sôi nẩy nở. Thó tìm đền, chùa, ông thày, bà đồng, coi tuổi đặt hướng ban thờ, bốc bát hương thờ Phật, thờ Mẫu, thần linh, gia tiên, thần tài, ông tiền chủ, bà chúa đất… Bát hương nhơ nhỡ thờ bà cô tổ, bát hương xinh xinh thờ cô bé, cậu bé. Cái bàn thờ chưa đầy hai mét vuông đặt tới gần chục loại bát hương to nhỏ khác nhau. Ông cán bộ Thó sớm chiêu chiều mộ, đèn, nến, hương hoa tụng kinh gõ mõ hàng ngày không hề xao nhãng. Tháng tám hội cha, tháng ba hội mẹ, chùa Hương - Yên Tử, chùa Thày - Tây Phương, Phủ Giày - Kiếp Bạc, Bắc Lệ - Thác Bờ, Phố Cát... Thó chẳng chịu kém cạnh ai việc du hành cúng bái. “Một lễ chùa xa bằng ba lễ chùa gần” mà lị. Ô tô cơ quan sẵn, muốn đi đâu cứ việc vi vu đi cầu tài, cầu lộc. Cầu cho riêng mình, nhân thể, tiện mồm cầu luôn cho cả nhà máy ăn nên làm ra. Nhà máy ăn nên làm ra công nhân viên chức được ăn ba, ta ăn năm ăn bảy tội gì không lễ, không cầu tài lộc cho ta, cho nhà máy!

Ði chùa, lễ Phật, lễ thánh là để sám hối, để mong thanh sạch cõi tâm. Là “Sám giả Sám kỳ tiền khiên, Hối giả hối Kỳ hậu quá” (Ăn năn lỗi trước, chừa bỏ lỗi sau). Thó lại nghĩ cách làm ăn cả trong việc lễ bái. Hễ đi lễ chùa xa là Thó thông báo cho các phòng ban trong toàn cơ quan:

- Mai vợ chồng tớ đi lễ chùa X đây. Chùa X nhiều lộc lắm bạn nào cầu lộc cầu tài gửi lễ vợ chồng mình lễ hộ, xin tài xin lộc về cho!

Vậy là các phòng ban răm rắp bảo nhau góp tiền gửi thủ trưởng đi lễ xin “lộc tài” hộ. Lộc tài là vài cái nhẫn, sợi dây chuyền mạ vàng, cái khánh nhựa đúc hình Phật, hoặc hai ba cành vàng lá ngọc phất phơ bằng giây trang kim sắc đỏ, săc vàng, sắc xanh mỏng dính, lòe loẹt dán kín quanh chiếc que tre trông như trò chơi trẻ con. Cầm tiền của các tín chủ gửi đi lễ hộ, chẳng biết Thó có cúng hộ họ vào hòm công đức đền, chùa hay không? Chỉ thấy khi lễ xong về qua Hà Nội, Thó bảo lái xe rẽ vào phố hàng Mã mua “lộc” theo giá buôn đem về phát cho những người gửi tiền thủ trưởng đi lễ hộ!

Ðừng ky bo với thủ trưởng, kỳ xét lên lương sắp tới đến nơi rồi, nếu thủ trướng ghét thủ trưởng om lại đợt sau còn thiệt hơn!

 

 

                               Phần 1

                            Cõi âm (46)

 

“Sẵn nong, sẵn né sẵn thằng bé ôm vào lòng”, một nhà máy cơ khí thừa hưởng từ các đời giám đốc trước nghỉ hưu bàn giao lại để Thó quản lý. Nhà máy chuyên sản xuất công cụ cung cấp cho hai ngành nông, lâm nghiệp của địa phương, không lời lãi nhiều nhưng cũng đủ nuôi nhau, còn có phần tích luỹ cho quỹ phúc lợi, qũy xây dựng các đoàn thể... Nghe một công ty môi giới nước ngoài xui khôn, giám đốc Thó làm một chuyến xuất ngoại tìm đối tác đầu tư liên doanh liên kết để làm ăn lớn. Liên doanh với chủ đầu tư người nước ngoài đang là niềm hy vọng của nhiều xí nghiệp đang gặp khó khăn trong cơ chế mở hiện tại. Cứ tưởng thiên hạ đem của biếu không chỉ việc ngồi dưới gốc cây há miệng chờ sung rụng vào mồm mấy ông đại lãn !

Ðô dẫn lối, Tệ đưa đường lòng vòng trên mây dưới biển thế nào Thó rước về chú ba Tàu Ðài Bắc đang có sẵn một dây chuyền sản xuất thuốc lá. Vốn khách bỏ hai, chủ nhà góp một. Lãnh đạo tỉnh còn đang do dự. Bởi mặt hàng thuốc lá, trung ương đang có mấy công ty lớn, các tỉnh khác cũng có vài nhà máy đang sản xuất đều đều, lại trong khi trên thế giới, nhiều quốc gia văn minh họ đang vận động không hút thuốc trong toàn cộng đồng. Tỉnh nhà xây thêm nhà máy nữa liệu có tiêu thụ được không? Ông bố vợ Thó tuy đã nghỉ hưu nhưng tiếng nói còn nặng đồng cân đồng lạng với các chú đàn em đương chức đương quyền của tỉnh nhà lắm. Ðược bố vợ tác động, Thó xắn tay áo làm ra ngô ra khoai cho thiên hạ biết tài của thằng con rể dưới cái ô đã cổ lỗ sĩ. Thế là cái nhà máy cơ khí - niềm tự hào của tỉnh nhà mấy chục năm qua bị tháo tung lanh tanh bành bán thanh lý cho đồng nát để lấy mặt bằng liên doanh xây nhà máy sản xuất thuốc lá nhãn "Con vịt giời!". Những anh thợ tiện, chị thợ nguội xếp búa, bỏ giũa, bỏ máy hàn để đi học cuốn thuốc lá do anh Ba Tàu Đài Bắc mở lớp dạy.

- Eo ơi, nhà máy mình một ngày sản xuất ra mấy chục vạn bao thuốc lá thì đất trời nước Nam này ngâm trong bể bồ hóng mất thôi.

Nghe thấy chị thợ nguội nói vui, bác thợ hàn cũng góp một câu đùa:

- Càng đỡ bị mối gặm mọt đục chứ sao.

Nhà máy xây xong ăn mừng khánh thành to ơi là to. Khách mời dự, sau khi ăn no uống say, mỗi ông, mỗi bà còn được cầm mỗi người một phong bì về làm quà cho bà xã ở nhà.

- Tay Ðài Loan này với cậu Thọ nhà ta chơi được đấy! (Ðó là lời khen của một ông cán bộ tỉnh đi ăn tiệc khánh thành trên đường ra xe nói với một cán bộ khác).

Nhà máy đi vào sản xuất ngay tắp lự, nhanh chóng ra lò mẻ thuốc đầu tiên để chào mừng thành công tư duy đổi mới...mới! Anh vịt giời to giang cánh bay trên tút thuốc lá “đặc biệt” ngất trời mây; em vịt giời nhỏ sải cánh cùng bay trên từng bao thuốc sắp sửa vượt biển Thái Bình Dương đi khắp trời Á - Âu - Phi - Mỹ hái tiền về cho hai anh Việt - Ðài làm giầu nay mai. Mẻ thuốc ra lò đầu để ưu tiên người tiêu dùng nước chủ nhà hút trước. Anh da trắng, chú da đen, em da nâu “hãy đợi đấy”, cánh tớ sẽ phục vụ tận tình từ mẻ thuốc ra lò sau. Yên tâm đi!

Những lời quảng cáo rất chi ấn tượng trên mọi phương tiện được phép quảng cáo ra rả sớm, trưa, chiều, tối: Nào hương vị đậm đà, hương thơm đặc biệt, khói xanh, khói trắng từ miệng người hút phà ra sẽ là hình trái tim, hình rồng, hình phượng vờn bay rất đẹp mắt; một người hút bốn, năm người đứng xa ngửi khói phải thèm…! Vậy mà dân nghiện thuốc vẫn thờ ơ. Vài người ngớp vì lời quảng cáo mua một bao hút thử, vừa rít một hơi đã ho sặc sụa vì thứ khói vừa ngai ngái, vừa gây gây, vừa nghẹn nghẹn, vừa ran rát như có vật gì chà vào cổ họng người hút nên ho sặc sụa. Vì hai lá phổi của dân xứ nhiệt đới ta đâu cần thiết phải sưởi ấm bằng khói thuốc lá như các xứ hàn đới mà xây thêm nhà máy thuốc lá để… sấy phổi cho chóng tan mùa đông! Có ông già nghiện thuốc, nghe lời quáng cáo như rót mật vào tai, mua hút thử, rít một hai hơi vội nhăn mặt ném tót đi, mà rằng:

- Thua xa thuốc lá Gô loa (Gaulois) Tây quăng của đám lính Tây Lê Dương thời Pháp tạm chiếm.

Nhân viên tiếp thị chở thuốc đến tận các hiệu bán lẻ chào hàng, tới đâu cũng được nghe một câu giống nhau:

- Ðể đây bán thử, được thì đến mà lấy tiền, không thì đến lấy thuốc về!

                                     

 

 

                                Phần 1

                             Cõi âm (47)

 

Mới sản xuất thử một tháng mà thuốc lá đã chồng đống trong kho, ngoài bãi. Che bạt, che nilon từng đống những kiện, những hòm thuốc lá nhãn hiệu con vịt giời đang giang cánh định bay đi Năm Châu bốn bể mà chưa thể cất mình lên nổi, vì chưa có thị trường nào chào đón, tiêu thụ thứ chứa đầy mầm bệnh chết người ấy!

Hai đồng giám đốc hội ý rồi đi đến quyết định tạm ngừng sản xuất, cho cán bộ, công nhân chở thuốc ra ngã ba, ngã tư, hè phố, cổng chợ, ga tầu, bến xe kẻ đứng, người ngồi bán lẻ, tự sản tự tiêu vậy. Những anh chị thợ cơ khí bậc năm, bậc bảy bỗng trở thành dân phe thuốc lá vỉa hè. Ế hàng, sinh ngáp vặt, ngáp vặt sinh buồn mồm, buồn mồm sinh thèm thuốc, thèm thuốc thì hút có ảnh hưởng gì đến tình hình thế giới đâu mà hãi! Chẳng ai bảo ai, tất cả lấy thuốc hút chơi. Người ta không mua thì nhà mình hút rồi về trừ vào lương tiền vậy!

Nhà máy xây xong ngon lành, sản xuất ra thuốc lá đủ điếu, đủ bao, đủ tút, đủ kiện, đủ lô và đủ nhãn mác từ trong ra ngoài đẹp đẽ, tuyệt với, mĩ mãn một trăm phần trăm rồi:

- Nỉ mân hảo! Cho ngộ xin nốt phần vốn góp của các bạn nhề !

Chuyển xong tiền vào tài khoản của chú Ba rồi, chú xách va li lên máy bay, một bay không quay cổ lại. Khi lên ôtô ra sân bay, chú Ba nét mặt tươi hơn hớn thò cổ ra cửa xe dặn với:

- Các “tồng tí” (đồng chí) sản xuất tiếp đi, càng nhiều càng tốốố...tốt, “ngổ may” (bay) sang Châu Âu, Châu Pi, Châu Mỷ tìm thị trường tiêu thụ cho nhề !

Chú Ba Tàu đi rồi, các “tồng tí” đợi mãi bóng chim tăm cá cứ tít mù khơi xa mà “dạt dào biển mênh mông” trong cõi lòng. Sau đó tìm hiểu kĩ mới hay rằng cái dây chuyền sản xuất thuốc lá đó của chú Ba Tàu Ðài Bắc đã lạc hậu từ thập kỷ 60 thế kỷ trước, đang bỏ xó, thì may sao gặp được đối tác gà mơ Lê Thành Thó cho chú Ba có chỗ tống khứ cái của nợ khỏi bãi rác nhà mình.

Bẵng đi vài năm không gặp lại Thó. Vì cái tạng tôi không hợp cách sống chộp giật vơ vét của Thó nên khó gần nhau, càng khó thân nhau được. Những tưởng sau vụ liên doanh sản xuất thuốc lá hãng con vịt giời sập tiệm, làm lỗ vốn mấy chục tỷ đồng của tỉnh, Thó sẽ “hạ màn” về hưu sớm. Nhưng sự đời cứ trái với cách nghĩ của những người thật thà, cả tin của chúng ta…

Lần ấy, tôi về quê dự hội làng. Vào đình thắp hương lễ thánh xong, vừa bước ra cửa thì thấy chiếc xe Toyota bóng nhoáng từ đầu làng lao vun vút vào sân đình đỗ xịch lại. Người lái xe bước xuống chạy vòng sang bên phải mở cửa đỡ một đôi vợ chồng dáng vẻ đài các bước ra. Chồng com-lê cà-vạt, vợ áo dài quần trắng đúng mốt người trên tỉnh về quê, tay bê mâm lễ bước ra. Mâm xôi đầy tú ụ, chồm chỗm con gà trống luộc vàng ngậy nằm trên trốc nghẹo cổ ngậm những hai bông hoa hồng đỏ gật gù vếch về hai phía, cùng nào làn nào túi các vật lễ khác được khuân ra tới tấp. Người trong họ nhà Thó hồ hởi sấn đến, kẻ chào người hỏi tíu tít. Ban tổ chức lễ hội ào đến mươi ông, dăm bà, xum xoe, ông đón mâm lễ, bà đỡ cái làn, cái túi cung kính mời vợ chồng họ vào đình. Chợt trông thấy tôi, Thó suồng sã:

- A chào! Biến đi đâu lâu thế, sao không thấy lại tao chơi, mày!?

Vợ Thó mãi mới nhận ra tôi, bảo chồng:

- Anh mời bác vào lễ cùng nhà mình đi.

Tôi từ chối, rằng đã lễ trước đó rồi.

Bỗng trong đám đông có tiếng ai đó văng vào tai tôi:

- Mẹ kiếp! Cái gầm trời này chẳng ra thể thống con c… củ l… gì sất cả?

Tai tôi ù đi, ong ong như thể đang ngụp dưới biển nước sâu, rất sâu khiến đầu căng ra như muốn vỡ.

Giờ gặp lại Thó ở Âm phủ làm tôi nhớ lại toàn bộ chuyện về con người này. Ðứng trước tôi và Huệ, những người kéo thuyền cùng với Thó, Thó luồn mồm khoe cái chức danh giám đốc của mình ở trần gian. Thó coi đó là một chiến tích huy hoàng một thời Thó lập được!?

Tôi đang ngẩn ngơ nhớ lại chuyện về Thó. Huệ lôi áo tôi giật giật, bảo:

- Ði thôi anh!

                                             

 

                                  Phần 1

                               Cõi âm (48)

 

Cũng lúc ấy một người trong đoàn kéo chiếc thuyền đến sau hớt hơ hớt hải chạy lại:

- Chú Phong! Có phải chú Phong đấy không?

Tôi ngoái lại, đần người vì chưa nhận ra người vừa gọi mình. Ðang định lại trí nhớ, để nhớ thì mồm người đó đã cấp tập, liến thoắng:

- Chú mày không nhận ra anh à? Phi đây! Cụm trưởng khu dân cư số 60 ở ngõ Chín Rồng đây! Chóng quên nhau thế? Lần nào tớ đến thu tiền quỹ tổ, đến nhà đằng ấy cũng được đằng ấy cho uống rượu. Rượu táo mèo của đằng ấy có vị chua chua, ngọt ngọt, thơm thơm, mềm môi, uống vào lắm! Đã lắm!

Nghe ông ta nhắc chuyện rượu làm tôi nhớ toàn bộ về con người này:

Ấy là vào những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, thời kì đất nước hấp hé mở cửa, không còn cấm chợ ngăn sông, nhân dân được tự do buôn bán kinh doanh. Toàn thể các chủ hộ khẩu ngõ Chín Rồng họp hội nghị để bầu ra cụm trưởng, đại diện cho khu dân cư nhận những công văn, chỉ thị, quyền lợi và để thu các loại quỹ nghĩa vụ do các hộ dân trong khu dân cư đóng góp lên UBND phường. Cụm dân cư số 60 (ngõ Chín Rồng) tự phát hình thành từ khu tập thể nhà binh cùng dân tạp pí lù từ khắp các phường phố khác trong nội thành đất chật người đông tách hộ khẩu, mua đất làm nhà cho con cái ra ở riêng. Ðất ở đây không của ông cha ai để thừa kế lại cả; mà là đất đầu thừa đuôi thẹo của một trại lính sử dụng không hết bỏ hoang hoá cỏ mọc um tùm; chỗ thì chó ỉa, chỗ làm nơi đổ rác thải ba chạ của những gia đình sinh sống quanh đó. Người làng Thượng, trước đây chuyên trồng rau mầu, thấy đất bỏ hoang tiếc của, bảo nhau ra khai phá trồng rau để cải thiện đời sống. Gieo trồng lâu lâu không thấy ai nói gì thì chiếm luôn làm đất tư cho gọn. Khi có người hỏi mua, được món tiền thì bán cho họ làm nhà ở. Ðịa bàn nằm châng lâng như một ốc đảo giữa hai phường. Phường nọ “đá” cho phường kia chẳng phường nào muốn nhận cái lọ mắm thối. Vì ở đó có dấu hiệu của cái túi chứa mọi tệ nạn xã hội, mất điểm thi đua của phường như chơi. Cửa hiệu buôn bán to không, khách sạn, nhà nghỉ không, cơ quan xí nghiệp cũng không nốt, có nguồn gì để mà thu được tiền về cho công quỹ của phường cơ chứ? Những quyền lợi thời bao cấp như sổ gạo, tem phiếu thịt thà, củi, dầu, mắm, muối mọi tiêu chuẩn trước đây phân phối, giờ nhà nước không còn cung cấp nữa. Có tiền ra chợ, bình đẳng trước thị trường, lấy gì khống chế được trên 300 hộ dân, với hàng nghìn con người một nửa thuộc diện công nhân quốc phòng, nửa còn lại gồm những ông già, bà cả nghỉ hưu và dân phe lưu động, sáng chợ giời buôn xe đạp, chiều phố Phùng Hưng buôn xe máy. Họ đi sớm về khuya, buôn tàu bán bè mãi đẩu mãi đâu nắm sao được việc làm ăn của họ mà quản lý? Mà quản lý cái gì ở họ chứ? Toàn dân trên bộ răng dưới cát tút!

Thấy tình hình đùn đi, đẩy lại bùng nhùng chẳng ai nhận thứ dân cư ba vạ này, ông quận trưởng ra quyết định sáp nhập vào phường K. Phường K là một xã ngoại thành mới lên “đời” đô thị. Từ chính quyền đến các đoàn thể được bầu bán phân chia đều theo các dòng họ. Phường K đang cần giữ bí mật việc điều hành “đất nước” của mình. Họ ngại cái “lọ mắm” thối dở ông dở thằng, hiểu biết không ra hiểu biết, ngu dốt chẳng ra ngu dốt rất khó “cai trị” này. Ông quận ép buộc rát quá, phường đành phải chấp nhận nhập thành một khu dân cư. Những kẻ ngụ cư chín người mười làng ấy, nơi chôn nhau cắt rốn có tổ tông, ông cha tử tế nó còn bỏ đi thì chắc gì đó là con dân ngoan lành dễ cai trị. Ðầu gật, nhưng bụng các ông uỷ ban phường K đều không được vui vẻ trống dong cờ mở cho lắm. Phường K coi cụm dân cư 60 như đứa con nuôi, khi nào thấy làm được việc hứng lên đến vuốt ve, quăng cho vài miếng, lúc ghét thì thây kệ. Thành ra ngõ phố luôn bị bùn lầy nước đọng, cứt chó, phân người, rác thải vứt, đổ ba lung tung chả khác bên xóm liều bên TN là mấy. Vì cái suy nghĩ ẩm ướt ấy của chính quyền phường K mà cụm dân cư số 60 trở thành “khu tự trị" thái ra thịt của ông tân cụm trưởng Phùng Văn Phi.

Cuộc họp, đề cử đến năm người mà chẳng ai chịu nhận. Ðược bầu làm cán bộ mà ông bà nào cũng chối bay bẩy, giẫy như đỉa phải vôi, sợ như sắp bị lôi ra pháp trường xử bắn. Bầu lớp trẻ, lớp trẻ từ chối bận việc cơ quan, nhà máy. Bầu lớp trung niên, người nghỉ chế độ mất sức, chỉ định ai người đó cũng cáo từ rằng phải đi làm thêm, buôn bán thêm, phải kiếm sống, chẳng ai muốn cơm nhà vác tù và hàng tổng. Cuộc hội nghị bỗng thở phào như trút được gánh nặng, khi ở một góc khuất có một người giơ cao tay xung phong tình nguyện ra “gánh vác việc dân việc nước”. Một trăm phần trăm giơ tay tán thành ngay để mong cuộc họp giải tán nhanh còn về xem tivi, sắp chương trình phim truyện đến nơi rồi. Họp lâu quá! Buồn ngủ chết đi được!

                                             

 

 

                               Phần 1

                            Cõi âm (49)

 

Sáng hôm sau tân cụm trưởng Phùng Văn Phi “chấp chính” ngay. Tính khí Phi thường nóng hôi hổi vậy. Công việc không làm ngay để đấy sợ ôi, miếng ăn không ăn ngay để đấy sợ nó thiu! Phi đảo quanh địa bàn mình phụ trách một vòng. Phi luồn ngõ trước. Phi lách ngõ sau. Phi đăm chiêu ngắm cái ao tù. Phi rẽ vào kiểm tra cái nhà xí, rồi sang vặn vặn cái vòi nước công cộng. Đếm đếm cái cột dèn, xoạc gang tay đo đo cái rãnh thoát nước, sải bước chân đo chiều rộng đoạn vỉa hè… Trông thấy mấy chiếc xe ôtô đang đậu cân, bán vôi xây bên đường. Phi lừ lừ đi đến hất hàm, hỏi:

- Này! Các cậu ở đâu đến đây bán vôi?

Một thanh niên đang cầm cuốn sổ đứng ghi mã cân hỏi lại Phi:

- Ông là cái thá gì mà hỏi linh tinh.

Phi vặn lại nó:

- Tao là gì mà mày không biết à?

Nó cự lại Phi:

- Ông làm gì thì ông biết chứ chúng tôi ở xa tới bán hàng làm sao biết được!

Câu trả lời làm Phi nóng mắt:

- Nói cho mày hay nhé! Tao là cán bộ phụ trách địa bàn này, tao có thừa quyền để hỏi chúng mày. Vôi của mày đủ giấy tờ thuế má chưa? Mà cho dù mày đủ giấy tờ thuế má tao cũng không đồng ý cho đỗ xe bán hàng bừa bãi trên địa bàn của tao phụ trách. Mày có biết bụi vôi của chúng mày độc hại, nguy hiểm thế nào không? Hít phải bụi vôi của chúng mày, sẽ bị rỗ hai buồng phổi gây ra ho lao chết cha con người ta thì sao? Xung quanh đây toàn cán bộ, công chức nghỉ hưu, người ta cần sự yên tĩnh để dưỡng lão mà chúng mày cứ làm náo loạn cả lên thì ai người ta ngủ được.

- Ngủ gì ngủ cả ban ngày?

- Thằng này hỗn, nhà tao tao thích ngủ ngày, ngủ đêm, ngủ lúc nào tao ngủ, mày ở đâu đến mà đòi cấm chúng tao ngủ ban ngày?

Lời qua tiếng lại mãi nghe chừng khó rứt. Cứ để mấy thằng cửu vạn cãi cùn, chuyện to ra công an đến, họ dẹp không cho bán thì nguy to. Chủ xe vôi vội chạy đến:

- Cho em xin lỗi bác, thằng này làm thuê không biết gì đâu bác nói với nó làm gì? Em cơ! - Rồi anh ta cầm tay tân cụm trưởng rủ đi:

- Mời bác vào đây uống với em chén nước.

Phi giật vội tay ra:

- Tao không biết uống nước.

- Mời bác uống cốc bia vậy.

- Bia bọt cái cóc khô!

- Bác cứ đùa em, cóc khô thối khẳm, vía bố em chẳng dám mời bác.

Vì không thể giằng tay ra được Phi đành theo chủ xe vào quán. Phi kiên quyết từ chối mà hắn cứ cố tình mở chai bia rót đầy ứ ự hai cốc vại. Làm như Phi thân tình với hắn đã từ lâu, hắn dúi cốc bia tận tay bắt Phi cầm để chạm cốc cùng hắn, thế có vô duyên không chứ. Hắn gọi thêm đĩa mực nướng thơm nức bày ra bàn nữa. Nể tình quá, nể hắn quá Phi đành phải chiều ý, uống cho hắn vừa lòng. Lai rai, nhấm nhí mực mực bia bia dần dà đĩa mực nướng cũng bay, năm sáu chai bia cũng cạn trơ tận đáy nằm quay lơ dưới gầm bàn, cả mấy túi lạc rang bùi thơm mùi húng lìu cũng chỉ còn lại ít vỏ lụa thi nhau bay chới với chơi vơi cùng đám ruồi nhặng. Mặt Phi đỏ tía lên đến tận đỉnh cái đầu hói bóng nhẫy. Ðôi mắt lươn ti hí càng thêm tí hỉn tí hin hơn, làm cho tân cụm trưởng không thể nào nhìn rõ những đám bụi vôi đang tung hoả mù vào nhà bà con dân phố được nữa. Ðó là ngày đầu tiên “chấp chính” của tân cụm trưởng Phùng Văn Phi. Những ngày sau nữa còn vô khối chuyện hay ho dài dài ra cái phết.

Xin tạm dừng để hồi một tí “ký ức” về thời gian phục vụ cách mạng của tân cụm trưởng Phi.

 

                                       

 

 

                                Phần 1

                             Cõi âm (50)

 

Anh công nhân lái xe xí nghiệp chế biến dược liệu, chuyến nào chở cành cây, lá thuốc về nhập kho cũng thấy thừa ra so với hoá đơn vận chuyển vài ba yến, thậm chí hàng tạ. Nơi xuất, xuất nhầm chăng? Nỏ phải thế! Số bao hoài sơn, bạch truật, xuyên khung, ý dĩ, đương quy... bốc lên xe bao nhiêu, lúc giao trả kho vẫn đầy đủ như đếm đầu lợn con rồi mà khi nhập kho vẫn dư thừa vài yến. Có chuyến hàng tạ, lạ thế chứ! Bởi sân phơi, lò sấy mãi tít trên rừng xanh núi đỏ, nơi gieo trồng dược liệu, trên đường vận chuyển, xe phải vượt sương rừng mưa núi, qua sông qua phà hoài sơn, bạch truật, xuyên khung, ý dĩ... “các hắn” tự hút ẩm mà tăng cân. Có thế mà nghĩ mãi mới ra. Cái đầu... cái đầu mình sao nó chậm tiến hóa quá đi, chậm hiểu quá đi”! Nếu đem nhập tất trả kho thì phí của giời… ơi quá. Lái xe Phi đành phải chuẩn bị sẵn vài chiếc bao tải để chuyến chuyến rút ruột “công trình” mỗi bao một ít gọi là, để có vài yến bán cho dân buôn thuốc bắc phố Lãn Ông lấy tiền bỏ túi! Dân gian chẳng có câu hay ra phết là gì: “Làm nghề nào ăn nghề ấy”. Chí phải. Vậy cho nên lái xe Phi cũng phải chở hàng gì ăn bớt hàng ấy vậy; chở hoài sơn ăn bớt hoài sơn, chở bạch truật ăn bớt bạch truật, chở đỗ trọng ăn bớt đỗ trọng, chở táo Tàu ăn bớt táo Tàu…

-“Thằng to ăn to, thằng bé ăn bé tao thằng chăn nghé cũng phải bẻ cành phi lao” chớ!

Một chuyến chở ý dĩ, kỉ tử, táo Tàu từ biên giới về, dân buôn thuốc bắc đánh hơi thấy gạ mua nhiều:

- “Nếu ông anh bán cả xe bọn em cân tất”! Máu tham nổi lên căng hai mép cá ngão, Phi bán luôn vài kiện. Bán xong, cầm mớ tiền trong tay, mới chột dạ. Ðây là mặt hàng quý hiếm để chế biến thuốc bổ bồi dưỡng cho cán bộ cao cấp TW, và các cán bộ quân đội đang chiến đấu trong chiến trường. Thiếu một hai yến còn có thể lý do lý trấu trí trá được, thiếu một lúc nửa tấn, khi nhập kho, thủ kho phát hiện ra thì rũ tù như chơi. Đã trót bán rồi không thể mua đâu để thế vào cho đủ được. Mà trên thị trường tự do gì ra có mà mua. Vì đây là thứ hàng nhập bằn ngoại tệ. Phi liền nghĩ ra một kế: ghé xe vào chợ mua dăm chiếc bao tải, chạy đến chỗ đường vắng, dưng xe lại san mỗi bao một ít ra  cho đủ đầu bao theo hoá đơn nhập rồi phóng xe tới đoạn có hồ nước cạnh đường, Phi ngoặt tay lái cho xe nhảy tõm xuống tắm cái cho mát cả xe lẫn người.

Khi xe hàng nằm gọn dưới hồ rồi máy xe còn sôi ùng ục dưới nước một lát mới chịu nằm im. Vì có chủ định trước nên Phi đã mở sẵn cửa và chỉ việc trườn người bò ra. Để người ướt thướt như chuột, Phi lóp ngóp bò lên bờ tìm tới bưu điện gọi về xí nghiệp báo cáo vấn đề xe rơi xuống hồ để xí nghiệp cử người lên vớt hàng!

Xe mất phanh, mất lái làm em mất cả điều khiển nên mới xảy tai nạn đáng tiếc ấy vậy! Ai bảo các thủ trưởng bắt em lái mãi cái xe cũ nát, không cho đè bẹp vài người đi đường là may rồi. Nó mà đè chết dăm người thì xí nghiệp ta có mà đền ốm cho mà xem!

Ðã suốt đời làm công nhân rồi, nay nghỉ hưu Phi thử làm cán bộ dăm năm xem có đúng như câu ca dân gian: “Ba mươi năm đại tá, không bằng một khoá uỷ ban”. Phi xung phong làm cụm trưởng là vì lẽ ấy.

Cạnh nhà Phi có cái ao tù bỏ hoang nằm kề hàng rào dây thép gai doanh trại quân đội. Đơn vị quân đội tưởng ao đó do phường K quản lý. Phường K lại ngỡ ao của quân đội. Nước cống nước rãnh các nhà quanh ao xả ra đọng lại đen ngòm ngòm, mùi xú uế bay vào nhà Phi thối ơi là thối. Lúc chưa làm cụm trưởng thì không sao, thối thế chứ thối nữa vẫn ngửi được, chịu được. Dân hai bên sông Tô Lịch, Kim Ngưu, sông Lừ kia sống chung với nước thải nước thối quanh năm nên mũi đã đơ thành chai, ngửi thế lâu quen mũi rồi. Giờ Phi làm cụm trưởng thì phải khác chứ, ai lại để nước thối ngày đêm xộc vào tra tấn hai lỗ mũi cán bộ thế bao giờ. Phi ra lệnh không nhà nào được thải nước ra ao đó nữa. Các ông các bà muốn có chỗ thoát nước hả? Ðóng tiền xây cống xả cho thoải mái. Có thế thôi. Chứ ăn ở mất vệ sinh mãi thế này ai mà chịu được? Thiếu văn minh đô thị quá bà con ơi! Nghe Phi phân tích có lý. Dân ngõ Chín Rồng rùng rùng đóng tiền cho phí xây cống thoát nước. Còn cái ao tù kia Phi cho “phu nhân”, góc này thả bè rau muống, góc kia thả bèo tấm nấu cám nuôi lợn. Tấc đất tấc vàng ai lại để phí của giờ thế!

Khi bên doanh trại quân đội cắt đất chia cho cán bộ, chiến sĩ để làm nhà ở. Lợi dụng lúc nhộm nhoạm dở đèn dở đom đóm, cái ao tù ấy được sát văn nhập vào đất của cụm trưởng Phùng Văn Phi ngon ơ như miếng chả chó hàng Vinh Béo đầu phố luôn… cho gọn ghẽ !

                                        

 

                              Phần 1

                          Cõi âm (51)

 

Hội đồng nhân dân phường sắp hết nhiệm kỳ, chuẩn bị bầu hội đồng khoá mới. Cụm dân cư số 60 cũng phải có người đại diện trong hội đồng nhân dân phường chứ! Thiếu sao được. Trưởng ban công tác mặt trận cụm đi hiệp thương tìm một công dân ưu tú ra tranh cử. Hiệp thương với ai họ cũng giãy nảy từ chối. Ông trưởng ban công tác mặt trận chưa nghĩ ra cách gì thì Phi hiến ngay một kế rất chi là hợp cái răng thằng cu lý:

- Chức ấy để đấy, tớ về bảo thằng con trai tớ ra ứng cử vậy!

Trưởng ban công tác mặt trận hoan nhiệt liệt luôn:

- Thế thì còn gì bằng, may quá! Anh về bảo ngay cậu ấy ra ứng cử “giúp” nhân dân cụm ta đi.

Ðể cho có sự bầu bán công bằng, và cũng để con trai mình có số phiếu bầu tập trung cao, Phi tìm đến hiệp thương với bà bác sĩ sản khoa Tân Thu vừa nghỉ hưu đang chờ lấy sổ. Những năm còn công tác bác sĩ Tân Thu luôn tất bật với công việc chuyên môn, công việc nghiên cứu, công việc quản lý cơ quan  không có thời gian cho bác sĩ về xóm, phố giao du buôn dưa lê dưa chuột nên khu phố ít người biết đến tên tuổi bà. Lý lịch ứng cử viên, con trai cụm trưởng thống kê dài đến hai tờ rưỡi giấy W (vê đúp) mà vẫn còn thừa thành tích chưa viết hết đành bớt lại để dành cho việc bầu cử vào chức vụ khác, các lần sau! Còn lý lịch bác sĩ Thu có sao bà khai vậy, không thêu dệt thêm thìa là rau răm cho dậy nồi canh hến như tờ lý lịch của con trai Phùng Văn Phi. Ở đây hai phần ba là khu gia binh, cử tri họ chỉ mê tín ứng cử viên là “dân” từng có thâm niên công tác trong quân ngũ, là lính cụ Hồ. Lính cụ Hồ bao giờ cũng trong sạch, ưu tú hơn. Cho dù thứ “lính” đó ngày xưa có B quay, tuột xích, anh nuôi cấp dưỡng gì thì cũng nhiều thành tích kháng chiến hơn hẳn bà bác sĩ mấy chục năm đỡ đẻ. Mỗi năm đón hàng trăm đứa trẻ chào đời và cầm dao mổ, xẻo bỏ cả trăm các khối u dạ con, khối u tử cung, khối u buồng trứng đem lại sức khoẻ, hạnh phúc cho hàng trăm người vợ, người mẹ... Dưng mờ, đó là thành tích âm thầm trong bốn bức tường phòng đỡ đẻ, phòng mổ, làm sao hàng xóm và khu dân cư ở đây nhìn thấy mà tín nhiệm bỏ phiếu cho bà. Thế là con trai cụm trưởng trúng cử với số phiếu bầu 49%. Dân phố tín nhiệm cao ghê cơ! Bác sĩ Thu được 48%. Lẽ ra con trai cụm trưởng phải đạt 51% phiếu bầu mới đủ số phiếu cần thiết để trúng cử. Dưng mà 3% số phiếu kia, duyên do cũng tại vài chục các cụ già kém mắt, nặng tai chẳng biết gạch ai bầu ai ra thế nào, ra cái làm sao. Các cụ không gạch xóa chi hết, cứ cầm tờ phiếu, rồi gấp làm tư bỏ vào hòm cho gọn, cho xong chuyện còn về trông cháu. Quy định lá phiếu ghi tên năm người, cử tri chỉ được bầu ba còn gạch đi hai, do kém mắt, nặng tai nên các cụ không ghạch, không xóa mà cứ thế bỏ tót vào hòm nên những phiếu đó không hợp lệ, thành thử con trai cụm trưởng mất đi 3% ấy, tiếc quá. Theo quy định, ứng cử viên phải đạt 51% phiếu bầu trở lên mới trúng cử. Nhưng đây là trường hợp hy hữu xảy ra ở cấp bầu cử, trên giơ tay biểu quyết để nâng giá trị cho sang, cho dân chủ. Cũng là tiện thể bầu hai ba cấp cao hơn thì cài vào khe răng lược cuộc bầu hạ cấp thế cho gọn. Ðem tập trung hàng nghìn con người bảo họ giơ tay biểu quyết thì lấy đau ra hội trường. Việc đã lỡ rồi chẳng lẽ bắt cử tri đi bỏ phiếu lại, tốn kém lắm! Toàn người về hưu cả ấy mà, ai trúng cử chả được. Ðúng guýt phần trăm phần chục làm gì cho thêm rắc rối lôi thôi ra!

Hoan hô, bà con dân phố cụm dân cư số 60 đã có người đại diện trong hội đồng nhân dân phường rồi, từ này bà con sẽ rất nhiều quyền lợi nhỏ, quyền lợi lớn thà hồ vui vẻ cái tỉnh thần!

 

 

 

                                 Phần 1

                              Cõi âm (52)

 

 

Vừa trúng cử hội đồng nhân dân phường, con trai cụm trưởng xung phong đảm nhiệm luôn công tác quân sự của phường. Chuyên việc gọi thanh niên đi đăng ký, khám tuyển nghĩa vụ quân sư để nhập ngũ. Một năm hai lần. Không biết mấy ông chính quyền nhìn thấy năng lực, tài cán đến mức nào của một ông lão trên năm mươi tuổi chưa học hết cấp phổ thông trung học, đã hưởng lương hưu còn xông ra tranh việc làm của lớp trẻ đang có trong tay bằng đại học, để các cháu phải dấn thân sang tận xứ Malaysia, Đài Loan quét đường, đẩy xe rác, làm Ôsin... Tre  không chịu già còn kẽ nào cho măng mọc? Các vị giáo sư từng dạy dỗ các em cứ tiếc ngẩn tiếc ngơ chất xám trí tuệ mà các thày mất bao công sức đào tạo ba, bốn năm trời bỏ phí bỏ hoài; phát buồn cho cái mớ đời nhố nhăng, nhỏ nhen đen bạc giữa thế kỷ gọi là văn minh, tiến bộ coi các thế hệ trẻ là vốn quý của đất nước, của dân tộc?

Sẵn gien di truyền từ ông bố Phùng Văn Phi, Phùng Văn Phỉ (tên con trai cụm trưởng) lọc lõi ngay từ khi được giao phụ trách lập danh sách gọi, khám, tuyển nghĩa vụ quân sự cho UBND phường.

Nhiều gia đình thấy con tuổi 18 rồi mà vẫn làm như nó còn non nớt, chưa đủ trưởng thành để bước ra trường đời, muốn lưu con ở nhà vài năm nữa cho cứng cáp, giỏi dang thêm bằng sự luông chiều, cưng nựng. Nghĩa vụ quân sự chẳng làm trước thì làm sau, đằng nào cũng sẽ làm. Vậy là họ đến thăm nhà Phỉ bằng cái phong bì cũng khá chăng chắc tay:

- Gia đình tôi mong chú chiếu cố hoàn cảnh, cho cháu nó hoãn khám tuyển nghĩa vụ năm nay, sang năm cháu sẽ khám, sẽ đi để rèn luyện!

Làm ra vẻ quan trọng, cứ như nước Mỹ sắp bị khủng bố thêm ngày 11 tháng 9 lần nữa đến nơi, cần phải tổng động viên gấp để bổ xung quân cho Liên hợp quốc đi cứu nước Mỹ! Phỉ làm nghiêm bộ mặt như mặc niệm, ra vẻ ràu ràu trên đầu đội khăn tang, rủ rỉ với vợ chồng người xin hoãn nghĩ vụ quân sự cho con:

- Khó hoãn lắm anh chị ơi, luật nghĩa vụ quân sự là nghiêm nhất đấy.

- Vẫn biết rằng thế chú ơi! Luật nhà nước là nghiêm minh rồi! Thôi thì trăm sự nhờ chú cả, ở dưới này chú che chở cho, chứ cấp trên ai biết? Cũng vì thương cháu còn non dại, chú giúp chúng tôi, cho cháu tạm hoãn năm nay…

Cái phong bì có nhân hành, nhân thịt, nhân giò, nhân chả trong đó nó nhờ hộ thì làm gì cậu ấm chả được hoãn nghĩa vụ công dân một vài năm!

 

Phi có bộ mặt khá là thổ phỉ. Cái đầu phình bên trên như đầu đứa trẻ bị còi xương. Vì to bên trên nên má và cằm phải hóp lại thành hình lưỡi cày. Anh mũi cà chua đỏ hắt thành ba múi lúc nào cũng chõ xuống chành choẹ với cô em mồm cá ngão. Chành choẹ không được đành ôm nỗi tức tối đầy vơi hếch lên trút bầu tâm sự cùng chị mắt lươn ti hí: “Thế có tức không cơ chứ! Chị em mình quan trọng là thế mà nó dám coi thường”. - Chị mắt lươn hấp ha hấp háy hỏi: “Gì thế cậu em? Lúc nào cậu em cũng tức tối đầy vơi thế? Quên tất mọi sự đời đi thì mới sống lâu được”. Anh mũi cà chua sụt sịt thổn thức: “Dù có tổn thọ em cũng làm ra nhẽ cho nó biết tay. Này nhé, miếng nào ngon thì chị nhìn thấy, mùi gì thơm thì em ngửi được, nó có biết cái gì đâu. Thế mà nó ăn như hổ đổ đó chả nhớ tới chị em mình. Chị có biết mỗi ôtô vôi đỗ bán ở đấy phải như thế nào với nó không? Này nhé: Ngoài việc nó nốc bia ừng ực ra họ còn phải nộp lệ phí cho nó mỗi xe 20.000đ/ ngày. Cái ao tù ấy nó vừa bán hơn trăm cây vàng xong. Rồi cái nhà xí công cộng nữa. Trên hai mươi mét vuông đất chứ năm ba chục phân đâu mà bảo nó nuốt chửng được. Nó đánh bùn sang ao nhập vào nhà lang Ðỗ rồi. Tiền nong ra sao chỉ mảnh đất nhà xí ấy biết được. Ðấy là mới thông kê sơ sơ ba thứ chị nhìn ra, em ngửi thấy. Còn những vụ đi tối về sớm như bắt bọn đánh bạc ở mấy xưởng mộc thì sao? Họ đánh bạc, thấy nó đến hô nhau bỏ của chạy lấy người, nó vơ tất đem nộp đi đâu chỉ có nắm tiền ấy biết? Phạt những nhà xây dựng trái phép nữa. Ngày chưa có đội kiểm tra xây dựng, phạt nhà người ta, thu chi đều do nó cả, rồi tiền quyên góp từ những cơ sở sản xuất ủng hộ cho trang thiết bị nhà văn hoá nữa... sắm được ba cái quạt Tàu địa phương đã hết nhẵn tiền!”. Anh mũi đỏ kể đến đó làm chị mắt lươn nổi ba máu sáu cơn lên: “Ghê gớm thật, một thằng tép riu còn ngang nhiên thế thì hỏi rằng... hỏi... ra... ằng…!”. Xem ra chị mắt lươn muốn làm cho ra nhẽ nhưng cũng lực bất tòng tâm ... Ô hô.. hi hi…! Chỉ tội cho gia đình nhà lang Ðỗ lên bờ xuống ruộng vì bị bà con dân phố kiện đòi mảnh đất nhà vệ sinh công cộng kia cả chục năm trời nay!

                                  

 

                              Phần 1

                           Cõi âm (53)

 

Ðồng cỏ mênh mông xanh tít tận chân trời, những đàn bò nhởn nhơ gặm cỏ bên cạch những đàn dê hiền lành. Lá cây nào dê thích dê ăn, ngọn cỏ nào bò thích bò gặm, hai giống vật khác loài nhưng chúng chung sống hoà bình với nhau như anh em. Hai người chăn dắt chúng lại không như thế, không thân thiện, chẳng sống hoà bình được với nhau mấy khi. Họ luôn hầm hè, tranh hơn với nhau từ câu nói, cãi vã nhau suốt ngày. Hai người đứng trên hai mỏm núi đá, giữa là cái thung lũng, chõ sang cãi nhau những chuyện rất vớ vẩn không thuộc lĩnh vực chăn bò chăn dê của họ, ai khiến họ gái goá lo việc triều đình chứ?

 Hai người, một là Hoa Kỳ, một là người Việt, cứ sư bảo sư phải vãi cái vãi hay, nếu không có cái thung lũng ngăn ở giữa có lẽ họ đã xông vào đấm đá nhau chí tử ngày vài trận cũng nên. Người Việt chê người Mỹ “đất nước không có bề dày lịch sử, nền văn hoá hiệp sĩ đấu gươm, đấu súng, đấm bốc, đấu bò tót hò hét man rợ cưỡng hiếp nền văn hoá đóng khố, lều cỏ Châu Phi sinh ra văn hoá Cao bồi, Găng Tơ, Rốc rếch quay cuồng, Hipy điên loạn. Tính tình thế, tổ tiên vậy mà lúc nào cũng đòi thống trị thế giới, cầm cân nảy mực thế giới bằng thứ biểu tượng thần Tự Do quà tặng. Dân tộc da đỏ, một chủng tộc có trên 25.000 năm tồn tại trên đất Châu Mỹ với nền văn minh May A huyền bí không thể xem thường, có trước các nền văn minh khác trên quả đất này hàng vạn năm bị các người dùng họng súng thực dân tàn sát đến sắp tuyệt chủng…”.

Người Mỹ đáp lại: “Ðừng ưỡn ngực khoe hơn làm gì cho thêm ngượng. Bốn nghìn năm lịch sử bắt đầu từ đâu? Từ mười tám đời vua Hùng ư? Xin cho biết ngày tháng năm ra đời, ngày tháng năm chấm rứt của 18 đời vua ấy. Kinh đô mười tám đời vua Hùng chính xác ở chỗ nào? Phong Châu ư? Chòm núi Nghĩa Lĩnh ư? Ôi, chẳng lẽ kinh đô của 18 đời vua hùng mạnh trị vì một đất nước biển rộng núi cao chất ngất vậy mà chỉ nằm chon von trên vài quả đồi cách đây chưa lâu hầu như còn hoang dại, đầm lầy, khe sâu, muối vắt, sâu bọ nhiều hơn ngô lúa; thêm khí hậu lam sơn chướng khí, bệnh tật đầy mình. Như”:  ho lao, sốt rét, đậu mùa, trốc đầu, thối tai, toét mắt đi đổ tại hướng đình!

- Đấy, lịnh sử đấy!

Ngay đoạn văn trong Việt Nam Sử Lược của học giả Trần Trọng Kim viết với tâm trạng đầy nghi ngờ: “Họ Hồng Bàng làm vua được 18 đời, đến năm 258 (trước công nguyên) thì bị nhà Thục lấy mất nước… Xét từ đời Kinh Dương Vương đến đời Hùng Vương thứ 18, cả thảy 20 ông vua, mà tính từ năm 2879 đến năm 258 (trước công nguyên) thì vừa được 2622. Tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị vì được non 150 năm! Dẫu là người đời thượng cổ nữa, thì cũng khó lòng mà có nhiều người sống lâu được như vậy. - Xem thế thì đủ biết đời Hồng Bàng không chắc là chuyện xác thực…"! Những triều đại sau: Thời An Dương Vương thì thành cổ Loa hiện nay đâu? Ðinh Tiên Hoàng cố đô Hoa Lư cung điện, đền đài dát bạc dát vàng lộng lẫy một thời biến đâu cả? Triều Ðinh - Lê lừng lẫy một thời chẳng lẽ chỉ là ba cái đình, chùa, đền miếu thờ cúng do người các đời sau thương tiếc Ðinh Bộ Lĩnh xây ẩn dật trong vùng đá vôi Hoa Lư? Triều Lý, triều Trần, triều Lê hoàng cung đội nón… về với đất cả ư? Dân tộc có bốn nghìn năm lịch sử người xây kẻ phá, không biết giữ gìn nên không có cái để tự hào, đi tự hào thứ tục truyền, truyền thuyết, huyền thoại truyền miệng vu vơ…

                                    

 

                                 Phần 1

                             Cõi âm (54)

 

Hãy ngó sang nước Tàu bên cạnh xem họ gìn giữ Vạn Lý Trường Thành, Tử Cấm Thành, lăng tẩm, đền đài của tổ tiên họ ra sao. Cách mạng văn hoá những năm 60 - 70 thế kỷ trước tưởng như họ sẽ xóa sạch “tàn dư phong kiến”, tàn dư thực dân đã từng xâu xé đất nước họ. Nước Campuchia với Angkor Wat, Angkor Thom những tưởng sau thời diệt chủng Pôn Pốt chỉ còn lại cái nền với đống đổ nát. Ngược lại hai nước đó họ chẳng mất gì là mấy? Họ cũng biến thiên giặc giã, triều vua nọ lật đổ triều vua kia xoành xoạch nhưng có bao giờ họ đang tâm tàn phá công sức, tàn phá những công trình do bàn tay tài hoa của người lao động làm nên. Người Việt lật đổ nhau là tiêu diệt cả ngọn cỏ nơi kẻ thù vừa đứng, đào cả mả tổ người ta đốt thành tro tán luyện vào thuốc súng bắn ra giữa biển Ðông cho hả cơn giận nhỏ nhen. Một việc làm phi luân thường đạo lý như thế lại nguỵ biện là đánh đổ tận gốc “tàn dư phong kiến”. Cái thằng phong kiến có bao giờ nó trực tiếp đục đá nung vôi, nhào đất đóng mộc, nung ra viên gạch, hay trực tiếp cầm dao xây tự xây lấy nhà nó ở bao giờ? Chẳng qua vì lòng dạ hẹp hòi, lương tâm củi rều củi mục nên mới bị mất gốc, mất hết nền móng của tổ tiên, mất chốn thiêng liêng để tự hào đành đi tự hào thứ phê hoang đổ nát không chút hình hài gì sất mà vẫn vô tư vỗ ngực tự hào? Hồ Tây đẹp long lanh giữa lòng Hà Nội, theo truyền thuyết của người Tàu, đó là chiếc gương thần trên trời bị vỡ làm đôi, một mảnh rơi trên đất Thăng Long, một mảnh rơi xuống Hàng Châu (Hàng Châu xưa kia cũng là đất của người Việt chúng mày), thành hai hồ nước đẹp hạng nhất thế giới. Nửa rơi trên đất Việt Nam thành Hồ Tây, nửa trên đất Hàng Châu, thành Tây Hồ. Tình trạng người Việt Nam gìn giữ, bảo vệ mảnh gương trời Hồ Tây như hiện nay thì chẳng bao lâu nữa mảnh gương trời đẹp lung linh kia sẽ biến thành cái ao làng tù hãm. Liệu người Việt Nam dám dũng cảm giải phóng thân thể cho Hồ Tây, bằng cách di rời toàn bộ các khu dân cư, nhà hàng khách sạn ra khỏi khu vực Hồ Tây một vài cây số không? Người Tàu họ đã làm đẹp để bảo vệ sinh thái cho Tây Hồ của họ. Họ dám nói ba không để bảo vệ mảnh gương trời quý giá của họ: “Không thành lập các khu dân cư quanh hồ, không cho tàu thuyền chạy xăng dầu trong hồ, không thả cá lạ, phóng uế, vứt rác, xả nước thải xuống Tây Hồ” của họ đã từ lâu rồi. Biết không?

Mảnh gương trời (Hồ Tây) của chúng mày thì hôi thối, tanh tưởi phát khiếp lên được. Đến mấy người bới rác quen bẩn là thế còn không dám dũng cảm thò tay xuống rửa thứ nước Hồ Tây của chúng mày?

 

 

 

                               Phần 1

                             Cõi âm (55)

 

Tao rất lạ, người Việt chúng mày nói thánh nói tướng như trạng Quỳnh nhưng suốt đời ăn xổi ở thì, tư duy ngắn cũn ngắn cỡn, thiếu hẳn phần nhìn xa trông rộng, thằng nào cũng vỗ ngực cho mình là tài, là giỏi, lại chẳng đem tài đem giỏi giúp cho người dân bớt nghèo khó, toàn bo bo vơ vào cho riêng mình là tài, là giỏi…!? Năm 1949 – 1950 tao làm lính Lê Dương trong quân đội Pháp tao chứng kiến chuyện một thằng sếp bốt làng Ðoài vu cho người làng Ðông theo Việt Minh, rồi kéo lính đồn dưới quyền đến phá dỡ toàn bộ đình chùa làng Ðông lấy gạch về xây bốt để “trấn thủ” làng Ðoài. Tượng Phật, tượng Thánh, tượng Mẫu, cột đình cột chùa làng Ðông toàn bằng gỗ lim, một vòng tay ôm không xuể bị thằng đê tiện đó hạ bệ đem lót đường cho xe tăng giặc đi càn quét vùng tự do. Tìm hiểu ra tao được biết. Chuyện có gì đâu. Thằng sếp bốt trước đó mê một cô gái làng Ðông, bảo bố mẹ đem trầu cau sang hỏi, gia đình cô gái không gả con cho hắn, bởi đời ông nội hắn xưa kia từng làm mõ làng. Người Việt chúng mày hay sĩ diện về truyền thống gia đình. Thằng sếp bốt phẫn chí bỏ làng đi biệt tăm. Tưởng nó đi theo cụ Nguyễn Ái Quốc làm cách mạng cứu dân cứu nước. Chúa ơi! Nó đi đầu quân làm lính đánh thuê sang Pháp đánh nhau với nước Ðức phát xít để kiếm cái mề đay đem về tâng công với lũ thực dân thống trị để được làm sếp bốt làng Ðoài, để sang phá đình phá chùa làng Ðông, đánh vào tín ngưỡng người làng Ðông. Nó tưởng đình chùa mất thì người làng Ðông sẽ bỏ làng mà đi, để cho làng Ðoài tràn sang chiếm nhà chiếm ruộng đất làng Ðông. Cái đầu cháu nội thằng mõ làng nghĩ cạn như trôn chén, làm cho cả làng Ðông căm thù mà đi theo Viết Minh. Ðêm người làng Ðông kéo sang san phẳng bốt làng Ðoài, thằng đê tiện đó chết vùi trong đám đổ nát đêm ấy. Người Việt chúng mày đối xử với nhau làm tao buồn đến tận bây giờ.  Bởi sống trong hận thù con người lúc nào cũng tràn ngập khổ đau. Làm vậy vừa lệch chuẩn, vừa trái với việc lấy nhân nghĩa thắng bạo tàn (Lấy chí nhân mà thay cường bạo) của Nguyễn Trãi khá xa.

Ngoài miệng lúc nào cũng nói lá lành đùm lá rách, toàn thấy của người phúc ta. Thằng có năm bẩy ngôi biệt thự ở tỉnh này tỉnh kia, tiền tỉ trong tay sao không đem chia bớt cho người nghèo? Rút túi ra một vài trăm đồng tiền mất giá góp làm mồi, để hô hào người khác rùm beng, để thằng nghèo vừa “tế độ” thằng nghèo hơn. Tao nói thế mày đừng tự ái, tự ái vặt không phải người quân tử, ngưỡng văn hoá không cao. Mày không tin về Ấp Thái Hà, Hà Nội xem lăng Hoàng Cao Khải còn gì không? Ba cha con Hoàng Cao Khải làm quan dưới thời thực dân Pháp giàu tú ụ, xây lăng tẩm, mộ phần ốp bằng những phiến đá xanh, đá trắng to như cánh phản, hai hàng ngựa đá, người đá đứng chầu, bảo vệ bộ xương tàn dưới lòng đất giờ còn dấu vết gì không? Ra mùn ra đất hết. Người Việt chúng mày có câu thành ngữ tao rất thích…

Biết là câu gì không?

- “Của thiên trả địa”.

Ngược lại, nhà doanh nghiệp gạch ngói Hưng Ký, ông Trần Văn Thành bỏ tiền mua hàng chục tấn gạo phát chẩn, tế bần cứu đói được những người nghèo thời đó nhớ ơn. Ông bà còn xây ngôi chùa Hưng Ký ở phố Minh Khai năm 1932, xây đền thờ Mẫu ở phố Hàng Trống Hà Nội, hai ngôi chùa, đền ở hai địa chỉ trên giờ vẫn còn nguyên vẹn, mùng một, ngày rằm nườm nượp già trê tìm đến lễ Phật cầu may, hoặc du xuân vãn cảnh đầu năm. Bà Nguyễn Thị Năm nữa, một điền chủ giàu có ở Ðồng Bẩm, Thái Nguyên với lòng yêu nước cao cả, năm 1946 đã ủng hộ cho cách mạng, cho kháng chiến nào thóc nào vàng. Tao nói thế không có nghĩa để khuyến khích những thằng giàu bây giờ đem tiền của đi xây đình, xây chùa. Nếu những người giàu bây giờ có tấm lòng như ông Thành, bà Năm thì nên đem tiền ủng hộ các địa phương vùng sâu vùng xa xây trường học, bệnh viện, xây nhà dưỡng lão cho những người già không nơi nương tựa, lập quỹ trợ cấp cho người thất nghiệp, xây trại nuôi dạy trẻ mồ côi thì tao mong muốn, tao coi ngưỡng văn hóa người mới cao, mới “vì nhân dân quên mình”...

                                          

 

 

 

 

CHUYỆN CÕI TRỜI & CHUYỆN CÕI ÂM

 

                                Phần 1

                             Cõi âm (56)

 

Nghe hai người chăn bò chăn dê Mỹ - Việt tranh luận kiểu kỳ thị lẫn nhau khiến tôi giật mình. Cái lý của người Việt không sai; cái lý của người Mỹ khó cãi, chỉ cảm thấy buồn, tôi chủ động kéo Huệ đi nơi khác. Thà nghe mười lời khen ngợi hơn đi nghe nửa lời chê bôi mình đủ thứ xấu.

Tôi hỏi Huệ:

- Sao người đàn ông bị những đứa con chết từ trong trứng hành hạ ở bãi cây xấu hổ gọi em là tiên nữ?

- Em là tiên chứ sao.

- Tiên thì ở cõi tiên sao lại xuống cõi âm?

- Em là người tự do, thích nay đây mai đó rong chơi, hơn nữa em đang muốn lấy chồng, ở cõi tiên không được lấy chồng. Các Mẫu mẹ giao cho em bảo vệ hồ tiên, không cho bọn đàn ông rình xem trộm để các nàng tiên tắm giữ sắc đẹp, một việc làm đến là buồn tẻ. Trời là đấng tự sinh không chịu thay đổi, vừa già nua, vừa trì trệ, vừa bảo thủ. Cái gì không chịu thay đổi cái đó không công bằng, muốn tiến hoá mà không chịu thay đổi thì làm sao tiến hoá được? Con vi vút H5N1 còn tiến hoá từ ăn thịt gà, thịt vịt sang ăn thịt người nữa là.

Nghe Huệ nói thế tôi nổi cơn tranh luận:

- Những gì em vừa nói anh thấy em tự mâu thuẫn với mình. Thay đổi một triều đại là sự xung đột giữa các thế lực đối kháng do triều đại đó thối nát, mất lòng dân, còn trời là đấng tạo hoá không thể thay thế. Thế giới con người vốn dĩ ích kỷ, có ai chịu tự nguyện rời bỏ quyền lực, quyền lợi cá nhân bao giờ. Ngay một ông giám đốc đến tuổi nghỉ hưu rồi mà chưa muốn rời quyền lực, còn luyến tiếc, hụt hẫng có khi đến vài năm trời mới cân bằng được tâm lí để sống cuộc sống đời thường những năm cuối đời. Từ giàu có cho đến quyền lực ai tạo dựng được cũng muốn cha truyền con nối. Tham và ích kỷ thuộc bản chất cố hữu của giống người em ạ! Em lại muốn thay đổi cả ông trời nữa thì hơi táo bạo và khó đấy.

- Ơ, sao chúng mình tự nhiên lại lan man thế nhỉ? Nào theo em lên trời sống thử một phen.

- Thôi, anh về đây.

Vừa nói tôi vừa co cẳng bỏ chạy, chạy rất nhanh, gặp một dòng sông chặn ngang tôi nhảy ào xuống, bơi qua. Qua sông tôi quay lại nhìn đã thấy Huệ đang lơ lửng bay lên trời trong bộ quân phục thời chiến tranh, một nàng tiên bộ đội đang bay về trời, lúc ấy tôi muốn bay theo, nhưng không bay được. Tôi không có cánh. Tôi không có cánh. Trời ơi sao loài người không được cái hạnh phúc có đôi cánh như chim, như các nàng tiên trong truyện cổ tích, để bay…?

 

                                                     (Hết phần 1)

 

 

Ghi chú: Khi đăng lên Blog, các số theo thứ tự

do chúng tôi chia ra từng đoạn để tiện theo dõi,

các số đó không phải chương hồi.

Truyện gồm hai phần, mỗi phần đều liền mạch.

XEM BÀI TRƯỚC XEM BÀI SAU TRANG CHỦ