3. Láy từ trong thơ.
Trong ngôn ngữ tự nhiên, các loài vật, đồ vật đọc lên đã có sự láy từ, như
tên gọi, để mô phỏng âm thanh, những vật cụ thể nhìn thấy, nghe thấy.
Láy từ có định nghĩa sau:
-“Từ láy là những từ được cấu tạo theo phương thức láy, đó là phương thức
lặp lại toàn bộ hay bộ phận hình thức của âm tiết (với những thanh điệu giữ
nguyên hay biến đổi theo quy tắc biến thanh, tức là quy tắc thanh điệu, biến
đổi theo hai nhóm, nhóm cao: thanh hỏi, thanh sắc, thanh ngang và nhóm thấp:
thanh huyền, thanh ngã, thanh nặng) của một hình vị hay đơn vị có nghĩa...”
(Đỗ Hữu Châu)
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
Từ láy nguyên tiếng sóng đôi: Cong cong, thẳng thẳng, trùng trùng. Láy
đổi âm: đu đủ (quả), chào mào (chim), cuồn cuộn (sóng).
Láy ba từ: tẻ tè te (tiếng gà gáy - Nguyễn khuyến), dài dằng dặc, hỏm
hòm hom: (Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom - Hồ Xuân Hương). Láy bốn từ: Thì
thà thì thụt, nhếch nha nhếch nhác, tứng tửng từng tưng:
- Non non, nước nước, tình tình
Vì ai ngơ ngẩn, cho mình ngẩn ngơ.
(Tú
Xương)
Buổi Sớm
Tai nghe gà gáy tẻ tè te
Bóng cúc vừa lên hé hẻ he
Non một chồng cao von vót vót
Hoa năm sắc nở loẻ loè loe...
Chim tình bầu bạn kia kìa kỉa...
Ơn nghĩa vua tôi nhẹ nhẻ nhè
Danh lợi mặc người ti tí tỉ
Ngủ trưa, trưa dậy khoẻ khoè khoe...
(KD)
Láy từ trong thơ để tạo sự nhịp nhàng khi tả hành động, mô phỏng âm thanh,
màu sắc, tả sự kỳ vĩ của thiên nhiên người làm thơ cảm xúc, hay quan sát được:
-Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om...
(Hồ
Xuân Hương)
-Tai nương nước giọt mái
nhà
Nghe trời nặng
nặng, nghe ta buồn buồn...
Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi...
Trăng muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ.
(Huy Cận)
- Những thằng cu áo đỏ chạy lon
xon
Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ.
(Ðoàn
Văn Cừ)
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
Láy đổi vần:
-Tre rũ rượi ven bờ chen ướt át
Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa
Và dầm mưa dòng sông tuôn dào dạt
Mặc con thuyền cắm lái đậu vu vơ
Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo
Vài quán hàng không khách đứng xo ro
Một bác lái ghé buồm vào hút điếu
Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi ho.
(Anh Thơ)
4. Ðiệp ngữ trong thơ.
Ðiệp ngữ là một
phương pháp cố ý lặp lại nhằm mục đích nhấn, để mở rộng ý và gây ấn tượng mạnh,
gợi cảm xúc cao cho người đọc, người nghe. Một từ, hay một cụm từ được dùng
nhiều lần sẽ làm người đọc chú ý. Ðiệp ngữ chia làm nhiều dạng: Ðiệp ngữ
nối tiếp, điệp ngữ cách quãng, điệp ngữ vòng tròn.
* Ðiệp ngữ
nối tiếp là những từ ngữ trực tiếp lặp lại đứng
liền nhau nhằm tạo ấn tượng mới mẻ cho câu thơ, đoạn thơ:
- Ai rao
sắn, rao mỳ... ai rách lành vạt áo
Sao bây giờ
lắm tiếng rao đêm...
Tiếng rao
đêm cứ thổn thức bồi hồi
Như tiếng
gió, tiếng mưa, tiếng cuộc đời lầm lũi
Giá tôi đủ
tiền mua hết tiếng rao đêm?
(Dương Kỳ
Anh)
- Ô! hoá ra
súc vật cũng biết quỳ?
Voi quỳ,
ngựa quỳ, chúa sơn lâm quỳ nốt.
(Võ Thanh An)
- Mỏng manh
tà áo trắng dài
Mỏng manh mỏng
mảnh bờ vai một người
Mỏng manh
giăng mắc lòng tôi
Mỏng manh
mỏng mảnh một lời đong đưa.
Mỏng manh đi
sớm về trưa
Mỏng manh
mỏng mảnh...lời chưa hêt lời...
(Ðịnh Hải)
- Một đồi,
một biển, một trăng
Một Hàn Mạc
Tử vĩnh hằng nằm đây
Một tôi nay
viếng chốn này
Một tim, một
óc... từng say thơ vàng
Bạc tình một
kiếp thi nhân
Bạc duyên bạc
số bạc thân xác người
Một xưa đen
bạc cuộc đời
Một nay hết
bạc chăng tôi với tình...
(Diệp Minh Tuyền)
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
* Ðiệp ngữ
cách quãng, là một hình thức lặp lại đứng cách nhau vừa gây
ấn tượng nổi bật vừa như có độ vang của âm thanh cho từng câu thơ, đoạn thơ:
- Xứ sở thật
thà sao lắm thứ điếm
Ðiếm biệt thự- điếm chợ - điếm vườn
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
Ðiếm cấp cao bán miệng nuôi trôn.
(Nguyễn Duy)
- Nếu mà
không nghe tiếng
Ðó là
những nỗi đau sâu
Khóc mà không
thấy nước mắt
Ðó là
những nỗi đau lâu
Tôi sợ những
nỗi đau như vậy
Như dao
nào thấy dao đâu.
(Phạm Hổ)
- Em vừa
đủ để anh khao khát
Vừa đủ làm cho anh thật là anh
Trời chớm thu vừa đủ nét xanh
Quả chua ấy
cũng vừa đủ ngọt.
(Trần Nhương)
- Gió thỉnh
thoảng đùa vui trong tán lá
Thỉnh
thoảng chim thảng thốt cất lời ca
Hoa thỉnh
thoảng đưa hương vào hoang vắng
Còn một người thỉnh thoảng ngoái nhìn
ta
Sông thỉnh
thoảng dào lên vài đợt sóng
Biển vô tư thỉnh
thoảng hoá bạc đầu
Trăng thỉnh
thoảng giấu mình vào mây trắng
Có hai người
thỉnh thoảng nhớ về nhau.
(Nông Thị
Ngọc Hoà)
* Ðiệp ngữ
vòng tròn, chữ cuối câu trên được lặp lại ở đầu
câu dưới rồi cứ thế truyền xuống các câu khác như từng đợt sóng vỗ vào bờ đá
triền miên, triền miên:
- Ngày ngày
em đứng em trông
Trông non non ngất, trông sông sông dài.
- Chữ nghĩa chính là chữ nhường
Nhường anh nhường chị ta nhường người trên
(Ca dao)
-Tao ở nhà tao, tao nhớ mi
Nhớ mi nên phải bước chân đi
Không đi mi nói rằng không đến
Ðến thì mi nói đến làm chi.
( Nguyễn Công Trứ)
HOÀNG XUÂN HỌA
Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
- Ai đã hay đâu tớ chán đời
Ðời chưa chán tớ, tớ còn chơi.
Chơi cho đời chán, cho đời
chán
Ðời chán nhau thời tớ sẽ
thôi.
(Tản Ðà)
-Em là... chả của riêng ai
Riêng ai là trúc là mai, chả là
Chả là ai của người ta
Người ta băng giá, mình là tuyết rơi.
(Thân Ðức Thi)
- Nụ tầm xuân xanh biếc, mà em đã có chồng.
Em đã có chồng rồi, nụ tầm xuân vẫn biếc
Hoa bưởi vẫn nồng thơm... và cái điều anh tiếc
Tiếc nụ tầm xuân xanh biếc, nụ tầm xuân.
(Bế Kiến Quốc)
Ðiệp song từ, là từng cặp từ
trùng nhau:
Con Vẹt
- Trong bọn chim lồng đáng quí mầy,
à à miệng
tiếng học in thầy.
Khuya
khuya sáng sáng chiều
chiều lắp,
Dạ dạ thưa
thưa bẩm bẩm hay.
(Phan Bội Châu)
Sự Ðời
Vất vất, vơ vơ cũng nực cười
Căm căm, cúi cúi có hơn ai
Nay còn chị
chị, anh anh đó
Mai đã ông ông, cụ cụ rồi!
Có có, không không lo hết kiếp
Khôn khôn, dại dại chết xong đời!
Chi bằng láo
láo, lơ lơ vậy
Ngủ ngủ, ăn ăn nói chuyện chơi!
KD
Ðiệp thanh
bằng:
Là những câu thơ
dùng toàn thanh bằng, để khơi gợi cảm giác bao trùm gây cảm xúc lâng lâng tràn
tràn ngây ngất cho người thưởng thức. Như trường hợp hai câu thơ sau đây của
Xuân Diệu:
- Sương nương
theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng
lòng lên chơi vơi.
Của Tản Ðà:
-Theo hai cô
tiên lên đường mây.
-Trông lên
chư tiên không còn ai.
- Giang hồ mê
chơi, quên quê hương.
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
Và Bích Khê:
-Trăng đan
qua cành muôn tay êm
Mây nhung pha
màu thu trên trời.
Thi sĩ Bích Khê có bài Tỳ bà
với 7 khổ 28 câu được dùng toàn thanh bằng (Xin xem phần phụ lục). Và chúng ta
còn gặp ở những nhà thơ khác:
- Ðêm nay, ta
nằm nghe mưa rơi
Nghe tiếng
trời gầm xa lắc.
- Em ơi! Sao
tóc em thơm vậy
Hay em vừa đi
qua vườn sầu riêng.
(Lê Anh Xuân - Ca Lê
Hiến)
-Trường Sơn
Tây anh đi, thương em
Bên ấy mưa
nhiều, con đường gánh gạo...
- Em thương
anh bên Tây mùa đông
Nước khe cạn
bướm bay lèn đá...
(Phạm Tiến Duật)
- Hoa như mưa
rơi rơi
Cánh mỏng
manh tan tác đỏ tươi
Như máu ứa
một thời trai trẻ
Hoa như mưa
rơi rơi
(Thanh Tùng)
-Thư anh tin
ngày về
Cho vầng
trăng hẹn mọc
Trong ngần
cau hoa thơm
Mây chớm màu
tha thiết.
-Trăng non
nghiêng qua rồi
Bom rung vầng
trăng khuyết
Xô thuyền
trong xa xôi
Giữa gập
ghềnh núi biếc...
Gặp nhau tròn
mùa trăng
Em trẻ như
bầu trời
Vòng tay anh
đằm thắm
Giàu lời ru trên môi...
- Mong chờ em
mong chờ
Vầng trăng
xinh - gương mặt
Sáng sáng đầy
theo anh
Suốt chặng
đường đánh giặc.
(Lê Thi Mây)