Giới Thiệu Các Luật Thơ, Thể Thơ, Cách Làm Thơ
NXB Văn Hóa Dân Tộc 2004
Hoàng Xuân Họa (Biên soạn)
123 Trang
LỜI
NHÀ XUẤT BẢN
Rằm
tháng Giêng năm Quý Mùi, Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Hội liên hiệp văn
học nghệ thuật Hà Nội đã tổ chức thành công Ngày thơ Việt Nam tại Trung tâm Văn
hóa – khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Lá cờ thơ thiêng liêng cũng được tạo từ
ngày đó với hình chim lạc sải cánh bay quấn quýt cùng chữ thơ giữa nền cờ ngũ
sắc cổ truyền được kéo lên trước nhà Thái Miếu trong hương xuân tươi nồng trên
bầu trời lồng lộng với sự chứng kiến của hàng ngàn người yêu thơ. Cũng ngày đó, tại các tỉnh, thành phố trong cả
nước từ Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, Nghệ An, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng,
Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ… cho tới đất Mũi Cà Mâu đều diễn ra những hoạt
động sôi nổi, phong phú dành cho
thơ và người yêu thơ. Cũng từ đó, làng báo có thêm tờ báo Thơ (phụ bản của báo
Văn Nghệ) được bạn đọc và người yêu thơ cả nước đón đợi, hoan nghênh. Sự kiên
này chứng tỏ, trong đời sống tinh thần của người Việt Nam , thơ luôn
có vị trí cao sang và rất được trọng thị.
Để
giúp người làm thơ và người yêu thơ tham khảo về các luật thơ, chúng tôi xin
trân trong giới thiệu cuốn “Giới thiệu các luật thơ, thể thơ, cách làm thơ” của tác giả Hoàng Xuân Họa. Rất
mong các ý kiến đóng góp, xây dựng của bạn đọc gần xa để lần tái bản sau
được tốt hơn.
Hà Nội tháng 6 năm 2004
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA DÂN TỘC
HOÀNG XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
Phần I
1. về ngữ âm tiếng việt.
Với tính đặc
biệt của ngữ âm tiếng Việt, tên gọi con người, tên chỉ đồ vật, các giống vật,
đến những từ chỉ thiên nhiên: trăng, sao, gió, nước, mây trời... khi nói thành
lời tự thân những âm ngữ ấy đã luyến láy lên những vần điệu du dương êm ái,
người làm thơ chỉ cần xếp đặt theo ý mình là thành những bài thơ dài ngắn, theo
các thể thơ truyền thống, hoặc niêm luật bó buộc như thơ Luật Ðường, để bày tỏ
mọi biểu hiện tâm trạng của cuộc sống con người. Ðó gọi là các thanh bằng, thanh trắc, các từ ngữ.
Thanh bằng và thanh trắc:
- Bằng: (b) Là những tiếng có thanh trầm, như
những tiếng “Ðoản Bình Thanh” (tiếng không có dấu) hay có thanh thấp mà dài như
tiếng “Tràng Bình Thanh” (tiếng dấu giọng huyền).
- Trắc: (tr) Là
những tiếng có thanh cao, những tiếng:“Tượng thanh” (có dấu giọng sắc); “Hồi thanh” (dấu giọng hỏi); “khứ thanh” (có dấu giọng ngã); “hạ thanh” (có dấu giọng nặng).
Thanh bằng có
thể biến đủ ra 6 thanh, tức là 2 thanh bằng và 4 thanh trắc.
Thí dụ.
Vần Bằng:
- Ðang = (Ðoản
bình thanh) = không dấu.
- Ðàng = (Tràng
bình thanh) = dấu huyền.
Vần trắc:
- Ðáng = (Tượng thanh) dấu sắc.
- Ðảng = (Hồi
thanh) = dấu hỏi.
- Ðãng = (Khứ
thanh) = dấu ngã.
- Ðạng = (Hạ
thanh) = dấu nặng.
Về vần quốc ngữ: Có vần
chính, vần thông.
Vần Chính:
Vần chính là
những tiếng đồng âm như: anh, oanh, inh, uynh, phu, thu, xu... phù, thù, xù...(vần
bằng). Thế, thể, thễ, thệ; lí, lỉ, lũ, lị; bó, bỏ, bõ, bọ; báng, bãng bảng, bạng... (vần trắc).
Vần thông:
Vần thông là những tiếng cùng thanh bằng:
xanh, xinh, đông, tây, thư, thơ, thâm, thầm thì…
2. Gieo vần trong thơ:
Vần là phương
thức lặp lại cấu thành câu thơ, để tạo ra nhịp điệu làm tăng sức gợi cảm, đọc
cho êm, dễ nhớ, dễ thuộc. Vần được phân biệt theo từng vị trí: Vần chính, vần chân, vần lưng và vần thông.
Vần có chức năng tách biệt từng dòng thơ, liên kết giữa câu trước với câu sau
để tạo âm hưởng, nhạc điệu cho câu thơ, nhằm làm nổi bật ý nghĩa câu thơ, đoạn
thơ.
HOÀNG
XUÂN HỌA
Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
Vần chính.
Vần chính là sự
phối hợp âm thanh ở mức độ cao giữa các tiếng được gieo vần, những âm cuối câu
gieo vần giống nhau, riêng các từ đầu câu muốn gieo vần phải khác nhau (gieo
được vần ở đầu câu là rất khó, rất ít người làm thơ gieo nổi):
- Chiều Phan Rang xanh – đau ngọc nát
Nắng - Chiêm Thành quanh quất tháp hoang
Hốc đá mỏi mưa – Hời nát giọt
Hoa văn Chàm thơm – khẽ trăng suông
(Phùng Cung)
Một thoáng nắng hồ mưa ảo phố
Mini hồng mây rằn lửa khăn bay
Tàu điện đỏ đáy hồ chuông tuổi nhỏ
Ngã tư may đường chuyện cổ mơ ngày
(Lê Đạt)
- Cái vớ vẩn lục tìm sao thấy
Anh ngủ vùi lời hứa bình minh
Trễ hẹn đưa em đi trẩy hội
Làm sao koe áo cưới giữa vườn tình?
(Nguyễn Nguyên Bảy)
- Hãy cất đi nơi ánh mắt của em
Cái tia chớp bàng hoàng ghê gớm ấy
Biển phút lặng mong đừng khơi sóng dậy
Chấm buồm xa đâu phải đã bình yên.
(Tô Hà)
Vần chân (cước vận):
Vần chân được gieo ở cuối câu thơ với tác dụng kết thúc câu thơ, tạo mối
liên kết các câu thơ với nhau. Vần chân rất đa dạng: Lúc liên tục, khi gián cách, lúc ôm nhau, khi hỗn hợp:
Liên tục:
-Lại nảy nòi ra họ chích choè
Quan thì án sát, đỗ ông nghè
Áo xiêm đủng đỉnh coi ra vẻ
Cờ bạc rong chơi đủ ngón nghề.
(Nguyễn Thiện Kế)
- Mỗi khi mưa ngớt, cơn giông qua
Xắn áo ra vườn ta lượm hoa
Những cánh vô duyên theo gió rã
Vừa cười vừa khóc, ta chôn hoa
(Hàn Mặc Tử).
HOÀNG XUÂN HỌA
Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
-Thôi em đi nhé em vui mãi
Anh muốn em
sung sướng suốt đời
Xa nhau hẹn
ngày mai gặp lại
Nhìn nhau
thấy đã lớn hơn rồi.
(Nguyễn Ðình Thi)
- Chùa lấp
sau rừng cây
(Thuyền ta đi
một ngày)
Lên cửa chùa
ta thấy
Hơn một trăm
ăn mày.
(Nguyễn Nhược Pháp)
-Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
(Quang Dũng)
- Em vác cuốc thăm đồng
Lúa sây hạt nặng bông
Thấy vui vui trong lòng
Em mong ngày
toàn thắng...
(Trần Hữu Thung)
- Ơi mối tình đầu
Như đi trên cát
Bước nhẹ mà
sâu
Mà cũng hoà
mau
Tưởng đã phai
màu
Ðường chiều
hoa cỏ
(Phạm Thiên Thư)
Vần gián cách:
- Trời xanh thế! Hàng cây thơ biết mấy!
Vườn non sao!
Ðường cỏ mộng bao nhiêu
Khi Phạm Thái
gặp Quỳnh Như thuở ấy
Khi chàng Kim
vừa được thấy nàng Kiều.
(Xuân
Diệu)
- Anh đọc
truyện em nghe
Em muốn làm
cô "Tấm"
Lòng - hoàng
tử anh mê
Từ buổi đầu
em lấm...
(Yến Lan)
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
- Anh xa em
như đất liền xa cách bể
Nửa đêm sâu
nằm lắng sóng phương em
Em thân thuộc
sao thành xa lạ thế
Sắp gặp em
rồi sóng lại đẩy xa thêm...
(Chế Lan Viên)
-Vừa chẵn
mười xuân tôi vui với lão
Nhờ cây bút
anh một phút nhập thần
A! Râu tóc
hát cùng khăn áo
A! Quạt gậy múa cùng tay chân.
(Trần Lê Văn)
Vần ôm nhau:
-Em cứ hẹn
nhưng em đừng đến nhé
Ðể lòng buồn tôi dạo khắp trong sân
Ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần
Tôi nói khẽ:
Ôi, làm sao nhớ thế!
(Hồ Dzếnh)
-Sương giăng mờ trên ngõ Tạm Thương
Ngõ rất cụt mà lòng xa thẳm
Ngõ bảy thước
mà lòng muôn dặm
Thương một đời
đâu phải tạm Thương.
(Chế Lan Viên)
Vần hỗn hợp:
-Ðưa người,
ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia
đình, một dửng dưng.
Ly khách! Ly
khách! Con đường nhỏ.
Chí lớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao
giờ nói trở lại
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
(Thâm Tâm)
- Chảy trên
bình minh đang hé giữa làn môi
Và rung động
đã bừng trên nét mặt
Một rạng đông với màu hồng ngọc
Cây si xanh
gọi họ đến ngồi
Trong bóng
rợp của mình, nói tới ngày mai.
(Nguyễn Mỹ)
Vần lưng (yêu vận). Là vần được gieo ở giữa câu thơ.
Trong thơ Song
thất lục bát:
- Cùng trông
lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh
ngắt một màu
Lòng chàng ý
thiếp ai sầu hơn ai?
(Ðoàn Thị Ðiểm)
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
- Nỗi bèo nước đã thôi thời thế
Tình cỏ
sương khôn dễ mà
khuây
Phòng văn trở
lại gót giày
Chén tương tư
rót cho đầy lại
vơi.
(Tản Ðà)
Trong thơ tự
do:
- Này hoa ngọc đã giật mình trắng muốt
Thoáng lay
mình gió vuốt bỗng lao đao
(Xuân
Diệu)
- Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy
Thì gian nan
gấp mấy cũng lên
đường.
(Bùi Minh Quốc)
- Ðường nắng
thương áo ong lưng chành sóng
Em bận lấy
chồng gửi bóng anh chăm
(Lê
Ðạt)
Trong thơ Lục
Bát:
- Ðêm qua
dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau.
Anh đi đâu,
anh về đâu?
Cánh buồm
nâu...cánh buồm nâu... cánh buồm...
(Nguyễn Bính)
Có thể gieo vần lưng ở tiếng thứ 4 câu bát:
- Núi cao chi
lắm núi ơi
Núi che mặt trời
không thấy người thương.
- Hà Nội băm sáu phố phường
Hàng Gạo, hàng Ðường, hàng Muối trắng tinh.
-Thấy anh em
cũng muốn theo
Em sợ anh nghèo,
anh bán em đi
Lấy anh em biết ăn gì?
Lộc sắn thì
chát, lộc si thì già.
(Ca dao)
Vần thông.
Là một loại vần
được tạo nên để phối hợp các âm thanh với nhau, không hoàn toàn cứ phải lặp lại
và có thể chỉ hơi giống nhau.
Ðồng vần trắc:
- Giếng nước
gốc đa nhớ người ra lính
Anh với tôi
biết từng cơn ớn lạnh.
(Chính Hữu)
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
- Chỉ lá rụng
dạt dào trên mái phố
Dẫu em biết rằng anh, anh cũng nhớ.
(Xuân
Quỳnh)
Ðồng vần
bằng:
-Tôi cũng
trông thấy người tôi yêu
Ngồi cạnh
suối trong cởi yếm đào.
(Hàn Mặc Tử)
-Tiếng gió
lùa qua thức mộng chim
Phá tan hương
khói giấc êm đềm.
(Vân Ðài)
- Hồng chưa
hồng lắm xanh còn xanh
Mỗi đoạn
đường qua, lại ngắm mình
Yêu lắm, chút
nắng chiều ngả phố
Tóc thơ trên
hai mái, bồng bềnh.
- Phải đâu mẹ của riêng anh
Mẹ là mẹ của chúng mình
đấy thôi
Mẹ tuy không đẻ không nuôi
Mà em ơn mẹ suốt đời chưa
xong.
(Xuân
Quỳnh)
-Trôi đi thuyền! Cứ trôi đi xa nữa!
Vỗ giăng khuya bơi mãi! Cánh chèo mơ!
Lòng ta là những hàng thành quách cũ
Tự ngàn năm bỗng vắng tiếng loa xưa.
(Vũ Ðình Liên)
(Còn tiếp)