5. Phương pháp sóng đôi trong thơ.
Sóng đôi được
dùng trong thơ để tạo mối tương tác giữa ngữ và nghĩa, tạo sự dồn dập, tạo hình
ảnh nổi bật làm phong phú câu thơ, đoạn thơ, để người nghe dễ nhớ, dễ thuộc:
-Trời trong
veo
Nước trong
veo
Em buông mái
chèo
Trên dòng
Hương Giang.
(Tố Hữu)
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
- Cuộc đời vẫn
đẹp sao
Tình yêu vẫn
đẹp sao
Dù đạn bom
man rợ thét gào...
- Một
tiếng chim ngân
Một làn gió biển...
-Thức dậy bao điều mới mẻ trong em
Thức dậy bao điều cao
quý trong em.
(Dương Hương Ly, tức Bùi Minh Quốc)
- Nhưng tôi biết, cái màu đỏ ấy
Cái màu đỏ như cái
màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi,
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người!
(Nguyễn Mỹ)
6. Ðảo ngữ trong thơ.
Vũ Từ Trang gọi
là "cách nói ngược". Ðảo ngữ là sự cố ý có chủ định viết lỗi văn phạm (kiểu như thợ dệt làng
Vạn Phúc cố ý dệt lỗi sợi vải để tạo hoa văn trên những tấm lụa Hà Ðông), vi
phạm trật tự chuẩn mực các đơn vị ngữ pháp trong câu để tạo đường nét, màu sắc,
tạo hình ảnh, để nhấn mạnh, để thể hiện sắc thái biểu cảm, một là: để bắt vần;
hai là: để gây ấn tượng; ba là: chịu ảnh hưởng của Hán văn. Ví dụ câu dưới đây:
- Cái gái đời
nay, gái mới ngoan
Quyết lòng ẩu
chiến với Tây quan.
(Nguyễn
Khuyến)
Chữ “Tây” là
định ngữ cho chữ “quan” nên Nguyễn Khuyến đặt trước.
Những ví dụ khác:
- Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
- Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
(Quang
Dũng)
- Dòng đời lệ chảy mang mang
Chống chèo tay trắng vẫn hoàn trắng tay.
(Nguyễn Thanh Kim)
- Bàn tay ấy chở che và gìn
giữ
Biết ơn em, ta từ miền cát gió.
(Lưu Quang Vũ)
- Mẹ thường khen hàm răng con đẹp
Hé môi cười ánh sáng
cười theo.
- Tóc bới, tai căng, tay vòng lấp lánh
Con đi theo hướng mặt trời.
(Thu Bồn)
- Cay đắng ngọt bùi cuộc đời kháng chiến
Nói sao hết em ơi bao kỷ niệm.
(Tế Hanh)
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
- Nơi đêm khuya vọng lại tiếng còi tàu
Bỗng nhớ xa xôi những miền đất nước...
- Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài
Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ.
(Lưu Quang Vũ)
- Chưa biết hẹn cùng ai, lòng đã núi
mới Pha Ðin đã bối rối Ðiện Biên rồi
qua chót vót đỉnh rừng, thăm thẳm
núi
mây che mùa chiến dịch vẫn còn bay.
(Nguyễn
Hữu Quý)
Quang Dũng - có cách nói ngược (đảo ngữ) rất duyên và tạo ra một
cách nói rất Quang Dũng. Ví dụ:
- Gió mùa chết héo mạ non xanh
(nhẽ ra, nếu nói thuận, thì: Mạ non chết héo vì gió mùa)
- Sương muối thấm vào bao đạn ướt
(nếu nói thuận, thì: Bao đạn thấm ướt vì sương muối)
-Tiếng hát dân quân đầu vọng gác
(nếu nói thuận, thì: Ðầu vọng gác vang tiếng hát của dân quân).
Cách viết của ông, đã ảnh hưởng nhiều đến thế hệ trẻ. Nhiều người đã học
tập và bắt trước cách viết của ông”.
(Vũ Từ
Trang, Báo Người Hà Nội số 41, ngày
10/10/2003).
Nhân đây chúng tôi cũng xin nêu lại một từ trong một bài thơ cổ, bài “Cảnh
Thu” của Bà Huyện Thanh Quan, có một câu thơ đã gây tranh luận qua mấy thập
kỷ: “Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ”. Người sửa tiếng “lưng”
thành tiếng “nghiêng”: “Túi nghiêng phong nguyệt nặng vì thơ”;
người đổi tiếng “lưng” thành tiếng “lèn”: “Túi lèn phong nguyệt nặng
vì thơ”; người cho là tiếng “lưng” ấy, ý là “lưng lửng” là
vơi, là không đầy; người lại bảo cái túi thơ ấy đeo sau lưng... Trời ạ! Ðó chỉ
là biện pháp đảo ngữ: “lưng túi gió trăng” mà thôi. Vì trong truyện Kiều
Nguyễn Du đã viết “Ðề huề lưng túi gió trăng” mất rồi. Bà Huyện Thanh
Quan không muốn sau này con cháu nghĩ bà đạo văn người khác nên đảo ngữ ra thế.
Tốn giấy mực quá đi thôi!
7. Phương pháp đối lập trong thơ.
Một khi không gieo nổi vần có thể dùng phương pháp đối lập tiếng, đối lập
vần, đối lập địa danh để tạo âm hưởng. Chế Lan Viên thường dùng phương pháp
này:
* Ðối lập từng cặp tiếng:
- Sợ nhất khi xuống địa phủ, bên vạc dầu của quỷ
Lại thi nhân cùng thi
nhân chạm trán, va đầu.
- Sao làm thơ không có nghề như thợ nhỉ?
Nghề đếm lá, nghề trồng
sao, nghề tát bể.
(Chế Lan Viên)
-Ta lại gặp những mặt người ta yêu biết mấy
Ta nhìn, ta ngắm, ta say
Ta run run
nắm những bàn tay
Thương nhớ
dồn trong tay ta nóng bỏng.
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
* Ðối lập vần:
-Trăng viên
mãn cuối trời đêm đêm em có nhớ
Mặt trăng
từng khuất nửa ở trong nhau.
(Hoàng Hữu)
-Tôi đứng nhìn em đi giữa sớm mai
Chiếc áo mưa xanh lên màu trời rộng
Em đi khuất
rồi tôi còn đứng lặng
Chiếc hôn đêm
qua vẫn nóng bồi hồi.
(Vũ Quốc ái)
- Bữa ấy
chúng ta chưa hình dung được
Ngay khúc
sông đây lại có cây cầu
Sông rộng
mênh mông con đò lá lúa
Ta thương con
đò như ta thương nhau.
(Vũ Quần Phương)
* Ðối lập địa danh:
-Sống quang
vinh mà chết cũng quang vinh.
Của Bãi
Sậy, Thái Nguyên và Yên Bái.
Là thi sĩ nghĩa là theo gió mới
Tìm ý thơ trên ngọn sóng Bạch Ðằng,
Ðể tâm hồn dào dạt với Chi Lăng,
Làm bất tử trận Ðống Ða oanh liệt.
(Sóng Hồng)
-Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên
Thai
Trong chùa Bút
Tháp
Giữa huyện Lang
Tài.
(Hoàng Cầm)
(Còn tiếp)