Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2018

Giới thiệu các luật thơ, thể thơ, cách làm thơ (Tiếp theo)

[​IMG]
5. Phương pháp sóng đôi trong thơ.
Sóng đôi được dùng trong thơ để tạo mối tương tác giữa ngữ và nghĩa, tạo sự dồn dập, tạo hình ảnh nổi bật làm phong phú câu thơ, đoạn thơ, để người nghe dễ nhớ, dễ thuộc:
-Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên dòng Hương Giang.
                            (Tố Hữu) 

HOÀNG XUÂN HA                                    Gii thiu các lut thơ- th thơ- cách làm thơ



- Cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao
Dù đạn bom man rợ thét gào...
- Một tiếng chim ngân
Một làn gió biển...

-Thức dậy bao điều mới mẻ trong em
Thức dậy bao điều cao quý trong em.
(Dương Hương Ly, tức Bùi Minh Quốc)

- Nhưng tôi biết, cái màu đỏ ấy
Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi,
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người!
                                      (Nguyễn Mỹ)

6. Ðảo ngữ trong thơ.
Vũ Từ Trang gọi là "cách nói ngược". Ðảo ngữ là sự cố ý có chủ định viết lỗi văn phạm (kiểu như thợ dệt làng Vạn Phúc cố ý dệt lỗi sợi vải để tạo hoa văn trên những tấm lụa Hà Ðông), vi phạm trật tự chuẩn mực các đơn vị ngữ pháp trong câu để tạo đường nét, màu sắc, tạo hình ảnh, để nhấn mạnh, để thể hiện sắc thái biểu cảm, một là: để bắt vần; hai là: để gây ấn tượng; ba là: chịu ảnh hưởng của Hán văn. Ví dụ câu dưới đây:
- Cái gái đời nay, gái mới ngoan
Quyết lòng ẩu chiến với Tây quan.
                                  (Nguyễn Khuyến)
Chữ “Tây” là định ngữ cho chữ “quan” nên Nguyễn Khuyến đặt trước.

Những ví dụ khác:
- Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
- Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
                                 (Quang Dũng)

- Dòng đời lệ chảy mang mang
Chống chèo tay trắng vẫn hoàn trắng tay.
                                (Nguyễn Thanh Kim)

 - Bàn tay ấy chở chegìn giữ
Biết ơn em, ta từ miền cát gió.
                              (Lưu Quang Vũ)

- Mẹ thường khen hàm răng con đẹp
Hé môi cười ánh sáng cười theo.
- Tóc bới, tai căng, tay vòng lấp lánh
Con đi theo hướng mặt trời.
                                    (Thu Bồn)
- Cay đắng ngọt bùi cuộc đời kháng chiến
Nói sao hết em ơi bao kỷ niệm.
                                     (Tế Hanh)

HOÀNG XUÂN HA                                    Gii thiu các lut thơ- th thơ- cách làm thơ


- Nơi đêm khuya vọng lại tiếng còi tàu
Bỗng nhớ xa xôi những miền đất nước...
 - Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài
Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ.
                                    (Lưu Quang Vũ)

- Chưa biết hẹn cùng ai, lòng đã núi
 mới Pha Ðin đã bối rối Ðiện Biên rồi
 qua chót vót đỉnh rừng, thăm thẳm núi
 mây che mùa chiến dịch vẫn còn bay.
                                     (Nguyễn Hữu Quý)

Quang Dũng - có cách nói ngược (đảo ngữ) rất duyên và tạo ra một cách nói rất Quang Dũng. Ví dụ:
 - Gió mùa chết héo mạ non xanh
(nhẽ ra, nếu nói thuận, thì: Mạ non chết héo vì gió mùa)
- Sương muối thấm vào bao đạn ướt
(nếu nói thuận, thì: Bao đạn thấm ướt vì sương muối)
-Tiếng hát dân quân đầu vọng gác
(nếu nói thuận, thì: Ðầu vọng gác vang tiếng hát của dân quân).
Cách viết của ông, đã ảnh hưởng nhiều đến thế hệ trẻ. Nhiều người đã học tập và bắt trước cách viết của ông”.
                           (Vũ Từ Trang, Báo Người Hà Nội  số 41, ngày 10/10/2003).

Nhân đây chúng tôi cũng xin nêu lại một từ trong một bài thơ cổ, bài “Cảnh Thu” của Bà Huyện Thanh Quan, có một câu thơ đã gây tranh luận qua mấy thập kỷ: “Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ”. Người sửa tiếng “lưng” thành tiếng “nghiêng”: “Túi nghiêng phong nguyệt nặng vì thơ”; người đổi tiếng “lưng” thành tiếng “lèn”: “Túi lèn phong nguyệt nặng vì thơ”; người cho là tiếng “lưng” ấy, ý là “lưng lửng” là vơi, là không đầy; người lại bảo cái túi thơ ấy đeo sau lưng... Trời ạ! Ðó chỉ là biện pháp đảo ngữ: “lưng túi gió trăng” mà thôi. Vì trong truyện Kiều Nguyễn Du đã viết “Ðề huề lưng túi gió trăng” mất rồi. Bà Huyện Thanh Quan không muốn sau này con cháu nghĩ bà đạo văn người khác nên đảo ngữ ra thế. Tốn giấy mực quá đi thôi!

7. Phương pháp đối lập trong thơ.
Một khi không gieo nổi vần có thể dùng phương pháp đối lập tiếng, đối lập vần, đối lập địa danh để tạo âm hưởng. Chế Lan Viên thường dùng phương pháp này:

* Ðối lập từng cặp tiếng:
- Sợ nhất khi xuống địa phủ, bên vạc dầu của quỷ
Lại thi nhân cùng thi nhân chạm trán, va đầu.
- Sao làm thơ không có nghề như thợ nhỉ?
Nghề đếm lá, nghề trồng sao, nghề tát bể.
                                           (Chế Lan Viên)
-Ta lại gặp những mặt người ta yêu biết mấy
Ta nhìn, ta ngắm, ta say
Ta run run nắm những bàn tay
Thương nhớ dồn trong tay ta nóng bỏng.

HOÀNG XUÂN HA                                    Gii thiu các lut thơ- th thơ- cách làm thơ


* Ðối lập vần:
-Trăng viên mãn cuối trời đêm đêm em có nhớ
Mặt trăng từng khuất nửa ở trong nhau.
                                        (Hoàng Hữu)

 -Tôi đứng nhìn em đi giữa sớm mai
 Chiếc áo mưa xanh lên màu trời rộng
Em đi khuất rồi tôi còn đứng lặng
Chiếc hôn đêm qua vẫn nóng bồi hồi.
                                       (Vũ Quốc ái)

- Bữa ấy chúng ta chưa hình dung được
Ngay khúc sông đây lại có cây cầu
Sông rộng mênh mông con đò lá lúa
Ta thương con đò như ta thương nhau.
                            (Vũ Quần Phương)

* Ðối lập địa danh:
-Sống quang vinh mà chết cũng quang vinh.
Của Bãi Sậy, Thái NguyênYên Bái.
Là thi sĩ nghĩa là theo gió mới
Tìm ý thơ trên ngọn sóng Bạch Ðằng,
Ðể tâm hồn dào dạt với Chi Lăng,
Làm bất tử trận Ðống Ða oanh liệt.
                                    (Sóng Hồng)

-Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài.
                   (Hoàng Cầm)


(Còn tiếp)
XEM BÀI TRƯỚC XEM BÀI SAU TRANG CHỦ