Triều dâng…
Biển biếc ….
Mông lung…
Buồm giăng
theo sóng cháy bùng đêm nay
Trăng soi đơn
chiếc canh dài
Người xa trăng
sáng cũng hoài, trăng ơi!
Chim trời chấp
chới bay đôi
Mà ai xa lắm…
ai ngồi nhớ nhung
Sương sa…
Biển vắng…
Lạnh lùng
Tàu đi còi rúc
não lùng khơi xa
Nơi đây không
một canh gà
Biển đêm ôm ấp
trăng ngà mộng mơ (…)
(Biển lạnh Hạ Long, 1980)
Tôi
có cảm giác nhà thơ Đinh Nhật Hạnh ôm nỗi buồn bếp nước không người chăm sóc,
ra biển ngồi cho nguôi ngoai. Nhưng anh cũng chẳng nguôi ngoai được bao nhiêu
trước cánh buồm cũng cô đơn như người, biển cũng vắng hoe vắng hoắt khi đêm
xuống: “Nơi đây không một canh gà/ Biển đêm ôm ấp trăng ngà mộng mơ”... Mới biết,
để nguôi đi một nỗi buồn là không dễ nên nhiều khi, nhiều người đành phải chung
sống với “lũ” những năm tháng còn lại của đời mình. May mà trời phú cho anh
khiếu năng thơ ca. Có lẽ năng khiếu thơ ca giảm buồn hữu hiệu nhất, và anh trờ
thành đam mê môn nghệ thuật giàu vẻ đẹp, giàu cảm xúc, giàu sức gợi… “Thơ như
tiền định” (tiêu đề một bài thơ của anh). Anh làm thơ từ thời ra nhập hướng đạo
sinh khu vực Bắc kỳ do nhà cách mạng Hoàng Đạo Thúy làm thủ lĩnh. Nhập vào tập
thể ấy, Đinh Nhật Hạnh viết bốn câu thơ đầu đời trong ngày đầu xa mẹ:
”Đã lỡ ra đi chẳng lẽ về
Không về nhớ tiếc cảnh đồng quê
Sông Lam bát ngát đầy thơ mộng
Trống rỗng lòng sao nhớ nhớ ghê.
(1942)
Rồi
cuộc sống bão táp cuốn đi, duyên thơ không cho anh phát tiết thời trai trẻ, chỉ
lúc có cảm xúc thì anh làm thơ vào sổ tay để… cất đi làm kỷ niệm. Nhưng từ năm
1975, anh có dịp tham quan nhiều vùng đất nước sau chiến tranh và trong mấy năm
làm chuyên gia ở nước ngoài, tầm nhìn được mở rộng, men thơ ủ sẵn trong anh
được “chưng cất” trở lại; nàng thơ bấy lâu ngủ im bừng thức. Nghỉ hưu, có nghề
y trong tay anh không mở phòng khám, hoặc đi làm thêm để có thu nhập mà anh lục
lại những cuốn sổ tay trong đó có những ghi chép, mà ngày xưa anh gọi là “phôi
thơ” (bán thành phẩm của thơ) đem đọc lại. Thật bất ngờ, những ghi chép đó tạo
cảm hứng cho anh sáng tạo liền mạch để vừa cho vui, vừa chia sẻ cùng bè bạn,
những người yêu thơ anh quen biết. Mạch thơ trong anh bắt nguồi từ câu hát
ví dặm bên đôi bờ sông Lam quê hương được khởi động chức năng, lời ru xưa của
mẹ ùa về thắp lửa bùng lên: “Ru con Gia huấn, Phan – Trần/ Thúy Kiều mệnh bạc,
Thúy Vân dịu dàng...” (Tâm khúc dâng mẹ, khúc 2).
Đinh
Nhật Hạnh có những bài thơ thế sự mà nhiều người đọc tâm đắc: “Chuyện nhặt bên
hồ, Rác, Tả thanh thiên…”. Thơ Đinh Nhật Hạnh nhiều bài mang hồn vía những câu
ví dặm:
“Sông Lam xanh dải lụa thề
Dòng vương hương ngát thuyền chè đêm đêm.
Bát nước chè gay
Buổi chia tay ai rót
Sóng sánh mật ong
Vàng tươi màu nắng
Chát xít đầu môi
Ngọt đằm cuống lưỡi
Hường chè xanh bốc khói thơm lừng”
(Hương chè xanh xóm cũ)
Chính những câu ví dặm như này đã ảnh hưởng vào thơ anh:
“Anh thương em nỏ nói khi đầu
Bây giờ đã lỡ ăn trầu người ta
Ăn trầu người ta
Như chim mắc nhạ
Như cá mắc mồi
Dặn bạn về kiếm lửa tìm đôi kẻo buồn”.
Cũng
như nhiều người làm thơ sinh ra trên các vùng dân ca khác. Những khúc dân ca
ngọt ngào ảnh hướng lớn tới thơ họ làm nên những phong cách thơ riêng cho mỗi
người.
Sau
khi in liền bốn tập thơ vào các năm 2004, 2005, 2006: “Vườn hương, Hương lan,
Quầng trăng, Bụi thời gian” tưởng anh gác bút nghỉ ngơi cho khỏe tuổi già. Đùng
một cái, bạn bè thấy anh xuất hiện trên các diễn đàn thơ câu lạc bộ với những
bài thơ ba dòng - thơ Haikư, thể thơ đặc trưng của người Nhật. Và anh mê đắm
đến cả trong giấc ngủ, khi ăn lúc nào anh cũng ngẫm nghĩ để tìm hiểu đến tận
chân tơ kẻ tóc thể thơ này. Tài liệu trong nước đọc chưa thỏa mãn được nhu cầu
khám phá của mình, anh nhờ bạn bè, con cháu ở nước ngoài, cứ thứ gì chạm đến
dòng thơ Haikư là anh nhắn họ gửi về. Rồi nào dịch, nào so sánh để chắt lọc xem
có gì ấn chứa bên trong mà thơ Haikư đang mê hoặc cả thế giới đương đại Phương
Tây như Pháp, Mỹ mà thơ Đường luật Trung Quốc, thơ Lục bát Việt Nam hai thể thơ
hay đến thế chưa “xâm lăng” văn hóa nổi vào Phương Tây được? Có phải do tài
tiếp thị của người Nhật hay do thể Haikư có bùa bả gì bên trong? Sau một thời
gian tìm hiểu cặn kẽ anh nghiệm ra rằng: thơ Haikư “bỏ bùa” nhiều người làm thơ
trên thế giới hiện nay là do sự ngắn (kiệm lời), sự gợi, sử liên tưởng đậm chất
dân dã của nó. Anh đem tài liệu thu hoạch được phổ biến cho bạn bè và CLB thơ
Hải Thượng, một CLB mà những người làm thơ một thời cùng làm trong ngành Y.
Thật bất ngờ, mọi người chỉ đọc qua tài liệu anh đưa, một tháng sau họ đã có
những bài Haikư mong muốn; tuy chưa thật hay, chưa thật Haikư nhưng cũng là một
bước khới đầu đáng kể, đáng kích lệ. Bởi, trong cuộc sống bão hòa thông tin như
hiện nay. Nào thơ, nào truyện ngắn, tiểu thuyết, truyền hình, báo giấy, sóng
phát thanh, internet… thứ gì cũng muốn xem, muốn đọc, muốn nghe để khám phá, để
hiểu biết… để giải trí; thơ là môn nghệ thuật không dễ dàng cảm thụ, thời gian
của một ngày không nhiều cho ta thưởng thức mọi thứ nên thơ ngắn sẽ là phổ cập
nhất trong tương lai với những người yêu thơ. Theo con đường này, anh cảm thấy
mình đi đúng hướng. Và anh ém mình ngồi “nhật tụng” trong ngôi chùa Haikư ba
năm để nghiên cưu, dịch thuật và sáng tác, đến nay anh đã có trong tay hàng
ngàn bài thơ dịch của các tác giả cổ điển như: Basho, Buson, Isa, Shiki (Nhật
Bản) và những tác giả trên thế giới. Anh đã sáng tác hàng trăm bài Haikư, nhiều
bài có chất lượng, mang lại bốn giải thưởng trong hai cuộc thi “Sự kiện Giao
lưu văn hóa Hội An- Nhật Bản, 1011 và 2012:
Trôi
chiếc giầy mồ côi
gọi mẹ
(giải nhì)
Khều đống đổ nát tìm con-
Được
một chiếc giầy nguyên vẹn
(giải ba)
Phố Hội mờ sương-
ánh trăng quyện
bóng đèn cổ tích
(giải ba)
Đinh Nhật hạnh đăng thơ trên các báo: Người đại biểu nhân dân, tạp chí Văn
Việt, tuần báo Người Hà Nội, Nguyệt san người Hà Nội, tạp Chí Hương sắc Việt
Nam và các tờ báo lớn khác. Đài truyền hình VTC10 đã đã dành một chương trình
nói về sự đam mê thơ Haikư của anh, rồi chương trình thơ người chơi lan trên
VTV4, báo điện tử Việt Nam - nét... Anh tâm sự: “Mình làm thơ Haikư theo một
dòng riêng từ năm 2007, tiêu chí là Haikư mở, thổi hồn Lục Bát vào Haikư để
nhập tịch Việt với các mảng đề tài: tình yêu, đất nước, số phận con người; nếu
được thì mình sẽ siêu thực, siêu hình, tân hình thức... mang bản sắc Việt. Sức
khỏe cho phép, kiến thức thơ tiến đến sâu rộng thì mình sẽ làm đúng theo mơ ước
hiện tại. Mình mê Haikư vì đó là chiếc kính vạn hoa, là đôi cánh có thể đưa
chúng ta đến chân trời khám phá tâm hồn con người nhiều bí ẩn từ thể thơ lạ
này”.
Nguyện
làm chú tiểu
quét chùa Haikư
Và:
Mơ-
lung linh Haikư
trên xanh trời Lục Bát
Ở
vảo tuổi 84 rồi mà anh vẫn mơ ước như một chàng trai. Chính thơ đã chắp cánh
làm ước mơ của anh trẻ lại. Thơ thật thú vị.