Dòng đầu: 5 tiếng; dòng thứ hai: 7 tiếng; dòng thứ ba: 5 tiếng (5 -7 - 5), và cũng không hạn chế số chữ trong một bài tùy vào cảm xúc của người làm thơ. Thơ Haikư thường đề cập thường xuyên với hai đề tài thiên nhiên và đời sống con người Nhật Bản.
Thiên nhiên trong thể giới thơ Haikư là nhữnh cảnh vật bình
dị, thân quen như ngôi nhà xưa cũ, ao nước, mảnh sân rêu phong, một tia nắng
nhỏ; những sinh vật nhỏ bé như chuồn chuồn, con ếch, bươm bướm, bày đom đóm...
“Đây được cho là những phút chớp lấy khoảnh khắc của thực tại để rồi cuối bài
là sự thăng hoa về cảm xúc và sáng tạo theo nguyên lý mùa và tương quan hình
ảnh. Kết cấu bỏ lửng của thơ Haiku chính là cái hư không, vô định và mở ra
nhiều cảm xúc mơ hồ cho người đọc... Nhắc đến thơ
Haiku, nhiều người yêu thơ sẽ không thể quên tên của những người đặt nền móng,
khai sáng cho thể thơ này như Matsuo Basho
(1644 – 1694), Yosa Buson (1716 – 1784), Kobayashi Issa (1763 – 1827), Masaoka
Shiki (1867 – 1902)… Mỗi nhà thơ đóng một vị trí quan trọng nhất định trong quá
trình hình thành và phát triển của thơ Haikư...”(Văn hóa Nhật Bản).
Ngôn
ngữ Nhật đa âm, một câu thơ 5 tiếng, hoặc 7 tiếng đọc lên nghe dài nhưng nghĩa
chỉ một, hai tiếng nếu dịch ra tiếng Việt.
Ví dụ:
Furuikeya
Kaerutobikomu
Mizunooto
Phiên
âm:
Fu ru I ke ya
Ka e ru to bi ko mu
Mi zu no o to
Tiếng Việt:
Trong ao xưa
Con ếch nhảy vào
Tiếng nước khua.
Tiếng Việt đơn âm nên
có thể dùng 17 chữ trong 3 dòng để diễn đạt cho một bài Haikư. Thơ Haikư cần sự
ngắn gọn, lắng đọng, suy tư, ngân nga, một chút thiền càng hay. Nếu thơ Haikư
làm bằng ngôn ngữ Việt, gieo vần chân hay vần gián cách, hoặc vần lưng đọc càng
êm ái du dương, dễ nhớ… nhưng không bắt buộc.
Về nội dung, Haikư
chính thống đòi hỏi trong bài phải nói về một trong bốn mùa: xuân, hạ, thu,
đông (tứ quý). Cũng không có nghĩa phải nêu hẳn tên cái mùa ấy ra mà dùng biểu
trưng: Như hoa này thuộc mùa này, quả kia thuộc mùa khác để diễn tả; lá vàng,
nắng, mưa, sương, tuyết làm biểu trưng cho một mùa... hoặc diễn đạt hình ảnh
lớn về vũ trụ chỉ cần gợi:
Tiếng ve kêu râm ran
(chỉ mùa hạ)
Như tan vào trong than
trong đá
Ôi, sao tĩnh lặng quá!
Vân vân và vân vân…
cũng có thể lồng chuyện thế sự, hoặc hình ảnh về tình mẫu tử:
Đến đây nào, với tôi
cùng chơi đùa chim sẻ
không còn mẹ trên đời.
(Issa)
Người Nhật làm thơ
Haikư không ghi đầu đề, mà ghi số thứ tự cho từng bài.
Ở ta, trước đây các nhà
thơ: Lê Đạt, Trần Dần, Dương Tường cũng từng làm lối thơ kiệm lời này, và
các ông đặt tiêu đề cho mỗi bài. Nhưng các ông làm không nhiều, đếm trong hai
tập thơ của Lê Đạt đã xuất bản: “Bóng chữ và U75 từ tình” chỉ chừng mươi bài:
ĐĂC NHIỆM
Thương anh đường trường
không người trò chuyện
Em đặc nhiệm dăm kỷ
niệm tháp tùng
THỤ LỘC
Xứ oản đất chùa hương
mộc
Vụng đường tu
E dám thụ lộc chùa
CÓ THỂ
Có thể sau lòng tiễn
nhau biệt cửa
Một huệ tình
Ơn chữ ngộ thừa yêu.
GA
Em
sao xa
chiều
bao
la ga.
Những bài thơ khác, thơ hai câu của Lê Đạt cũng mang tính Haikư khá cao:
NGHỈ LỄ
Sao
em nỡ nghỉ yêu Chủ Nhật
Xuân
đình công phố thất nghiệp tình.
CẤM
CỬA
Nhà
em đường thênh thang xa lộ
Biển
an toàn cấm cửa mình anh.
GIẢ
NGHĨA
Một
thư đãi bôi mấy tời giả nghĩa
Mưa thanh minh cho mía
nhạt tình.
Phải thừa nhận rằng chữ
nghĩa của Lê Đạt dùng trong thơ rất tài tình.
Dịch giả, nhà thơ Dương
Tường trong tập Thơ Dương Tường do nhà xuất bản Hải Phòng ấn hành năm 2005 ông
đã ghi rõ :
(Bắt chước phong cách
Haikư ở từng bài Haikư của ông):
LẠC 1
Ai
bẻ ghi tôi
tu
huýt còi
hoang
ga em?
LẠC
2
Ô
kìa một mối tình thôi lôi
ai
thả trôi
giữa
dòng kí ức
MÀU
NHỚ 3
Hồ
môi thơ lã chã âm xưa
bản
nháp chiều tơ liễu
mưa
đưa.
Về
nhà thơ Trần Dần, ông không tuyên bố là thơ Haikư nhưng hình thức về thể loại
trong thơ của ông rất sát với thơ Haikư:
SẸO ĐÈN 5 - 6
jậu sắt
sẹo
jài jách lá mượt jòng jừa
tuần
lễ lấm
CHÙM
22
Bustơ cây
nhu
nhú lá
mùi
thịt buổi sớm
THƠ
MI NI
Vô tư như thưở ngày xưa
Nhìn
một vì sao
buồn
bên ngưỡng cửa.
THƠ
NGẮN
Quả đất Á, Âu đều đất
Anh
đau ở chỗ nào
Vết
thương ngàn dậm lạnh
KHÔNG
ĐỀ
THÔI - về nhà
kẻo
vợ
chờ
cơm!
Vì
giai đoạn ra đời những bài thơ kể trên ba ông rất thân nhau, vịn vào thơ, vin
vào nhau để vướt qua thời kỳ mắc tai nạn nghề nghiệp.
Với ý tưởng
làm mới ngôn ngữ Việt, thơ Việt các nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường đã
phần nào thành công trong thế thơ này, tuy các ông làm thơ Haikư không nhiều,
cũng là gian đoạn manh nha để thể thơ này phát triển tại Việt Nam những năm gần
đây ở Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh và Nha Trang...