Ở vào tuổi 96, cụ Bùi Hạnh Cẩn vẫn hàng ngày với
chiếc máy tính để cặp nhật tin tức trên các báo điện tử và các trang web, blog
cá nhân mà cụ thích. Đọc mỏi mắt, cụ lại dùng bút dạ màu để vẽ tranh chữ khi
một ý tưởng mới nảy sinh trong đầu.
Khi vẽ các loài hoa, lúc vẽ hình họa bằng những nét thảo
thư, mà cụ gọi là “tự họa” đầy tính siêu thực, ẩn dụ. Tranh chữ của cụ đã được
các Hội Văn học nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa Vũng Tàu, Tiền Giang,
Cần Thơ… mời vào triển lãm và biểu diễn tại chỗ, năm 1991.
Triển lãm Tranh Chữ của cụ Bùi Tài Tử được tổ chức
lần đầu tại thành phố HCM từ ngày 5 đến ngày 8 tết âm lịch. (Hóa ra Hà
Nội, nơi lão nghệ sĩ sinh sống, viết và vẽ lại đi sau Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ
một năm). Trong bốn ngày triển lãm đó, theo nhà thơ Bảo Định Giang viết trong
bài: Phòng Tranh Chữ Của Bùi Hạnh Cẩn Tại Thành Phố Hồ Chí Minh, thì cụ Bùi Tài
Từ đã gặt hái được những thành công đáng kể. Được lãnh đạo thành phố quan tâm.
“Đồng chí Dương Đình Thảo, Trưởng ban tuyên huấn Thành ủy và đồng chí Trần
Trọng Tần, Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (thời kì 1991) có mặt từ
giờ đầu và mở đầu được nhà văn Bùi Hạnh Cẩn “khai bút” viết cho mỗi người một
bức theo nội dung hai ông tự chọn lựa. Xem xong, đồng chí Dương Đình Thảo rất
thích và yêu cầu viết thêm một bức để tặng bạn thân”. Đặc biệt, ông lãnh sự
Tiệp Khắc (cũ) tại Tp. HCM, Vladislav Lausky, Giám đốc nhà văn hóa Tiệp - Việt
khi nhận bức tranh chữ cụ Bùi tặng đã nói: “Với nội dung thắm tình hữu nghị và
với nét bút tuyệt vời này, tôi sẽ lồng kính treo giữa phòng làm việc của tôi”.
Và ông ghi vào sổ lưu niệm của cụ: “Cuộc triển lãm hết sức hấp dẫn, không những
vì tranh mà còn cả vì nội dung của chữ nữa”. Theo bài viết của nhà thơ Bảo Định
Giang, trong mấy ngày cụ Bùi Tài Tử mở triển lãm tranh chữ của mình tại Tp.
HCM, nhiều người chữ nghĩa đầy mình đến xin chữ của cụ. Từ bà tiến sĩ tâm lí
học, cho đến các nhà văn, các nghệ sĩ, nhà báo, nhà giáo, sinh viên đến xin chữ
trong mấy hôm đó làm cụ mệt nhoài.
Nói như nữ sĩ Mai Thục trong bài Trăng Tây Hồ Còn
Mãi Bóng Thi Nhân: “Cái thú ăn chơi của người quân tử, trở thành thuật dưỡng
sinh kéo dài tuổi thọ. Bùi Hạnh Cẩn tiếp cận được sự khôn ngoan ấy. Tuổi ngoài
chín mươi, ông vẫn bạn mải với trò chơi thư họa. Tết nào ông cũng ra Văn Miếu
chơi chữ, vui xuân cùng du khách Đông - Tây. Ông bảo: “Đời chưa chán tớ tớ, còn
chơi”(thơ Tản Đà).
Một nhà thơ thì viết:
“Anh đã đi qua huyền ảo bảy màu
Để nhận rõ Đạo Thiền chung một ngả
Ngàn thông biếc vẫn thương nhành liễu rủ
Một thân cau trong trẻo giọt xuân tình
Bảy mươi xuân Anh vẫn sống hết mình
Bướm về đậu giữa tờ hoa thơm ngọt
Đừng Anh nhé giận hờn quăng cán bút
Đời tìm đâu tàu chuối để che sương…”
(Thơ Minh Hồng tặng cụ Bùi, năm 1992)
Tranh chữ của cụ được các nhà báo, các văn nghệ sĩ:
Thép Mới, Lê Văn Ba, Kim Hiền, Lê Việt, Viên Ca, Lê Xuân Kỳ, Trần
Cư, Phượng Kim, Lê Thanh Hải, Ngọc Tú, Mai Thục, Bảo Định Giang… Đăc biệt là
những người nước ngoài khi xem tranh của cụ đã có những cảm nhận sâu sắc. Như
giáo sư người Mỹ C, D,. Sedalla ghi vào sổ lưu niệm hôm cụ mở phòng tranh ở Thư
viện Quốc gia Việt Nam, ngày 23 - 4- 1992: “Cảm ơn tác giả và ban tổ chức phòng
trang độc đáo và thiên tài, xứng đáng trưng bày ở Louvre. Ông Cẩn không bắt chước
ai, và càng khó ai bắt trước được ông Cẩn. Đó là tư duy riêng của mỗi người”.
Một người nước ngoài khác tên là Jeremy F. jones Be, ghi: “Tranh chữ của ông
không chỉ lý thú mà còn hấp dẫn - cảm ơn. Nội dung ý tưởng mang tính chất
truyền thống dân tộc - Những thế hệ mới cần biết tới - Tôi nghĩ loại tranh này
nên được giao tiếp nhiều hơn nữa với tất cả các khán giả trong và ngoài nước.
Xin cảm ơn!”. Và đây là cảm tưởng của John Donglas Reak: “Tranh chữ của ông gây
cho tôi một sự ngạc nhiên - Cả về ý tưởng cũng như thực hiện bức tranh “Trẩy
Hội Chùa” đặc biệt đẹp – Tôi rất thích tranh “Kanguru” - Những bức tranh
mang chất thơ và chất truyền thống sâu đậm của dân tộc Việt Nam thời xưa. Cảm
ơn”. Cùng vô số lời khen của khán giả trong Nam ngoài Bắc khi xem tranh chữ của
cụ đều ghi những lời khen trân trọng đầy cảm hứng từ tranh của cụ khơi gợi.
Tôi may nắm được cụ tiếp chuyện bốn, năm lần. Lần
thì tự đến một mình, lần thì một bạn văn nhờ dẫn đến xin cụ Bùi Sách Tranh Chữ;
hai lần đi cùng vợ chồng nhà văn Nguyễn Nguyên Bảy - nhà thơ Lý Phương Liên từ
Sài Gòn ra. Lần nào chúng tôi đến gặp cụ đều rất vui. Một không khi vui chân
tình, ấm áp, cởi mở. Cụ nói chuyện rất hóm và hài hước.
Các bức tranh: như bức “Lạc đạo” bên bức “Ngồi
Thiền” (trang 67), và bức “Mình” bên cạnh bức “Vâng” (trang 75) là những bức
tranh mang tính ẩn dụ, siếu thực cao. Mỗi lần gặp cụ định hỏi cho rõ ẩn ý
những bức tranh đó và nhiều bức khác, song sợ phạm thượng nên tôi đành im thít
mang nỗi ấm ức ra về rồi mở sách tranh của cụ ra xoay đi xoay lại bốn chiều,
ngắm và soi, định tự mình tìm ra những ẩn dụ trong đó, nhưng do trình độ hiểu
biết về mỹ thuật của mình thuộc diện i tờ ít nên đành chịu thiệt thòi với những
khúc mắc riêng. May sao, khi mở đọc bài viết của Mai Thục, nguyên tổng biên tập
báo Phụ Nữ Thủ Đô, ở trang 91, chị viết: “Chữ “Đạo” của Bùi Hạnh Cẩn táo bạo và
bùng nổ. Chữ “Đạo” được ông vẽ ra, cách điệu tưởng như bầu vũ trụ, như người
khỏa thân. Cách đây hai mươi năm, ông trưng bày tranh chữ ở Thành phố Hồ Chi
Minh, khách Tây, người ta đều xúm vào chữ “Đạo”. Họ kinh ngạc hỏi ông: - Tại
sao ông lại viết chữ đạo thế này? - Chữ Đạo là bản chất của vũ trụ, cân bằng Âm
- Dương, sinh sôi nảy nở, tái tạo hay hủy diệt, là con đường gọi lòng người
hướng thiện. Tôi mượn chất tượng hình ở chữ “Đạo” vẽ gợi hình thiếu nữ múa lụa.
Hầu như nam, nữ, cặp đôi vợ chồng, đều nhận chữ “Đạo” mang về nhà. Có người
hỏi: “Ông đọc Freud chưa?”
Thiên hạ đều giỏi cả. Nhân loại hiểu nghĩa chữ
“Đạo” theo nét vẽ của ông. Vũ trụ xoay quanh chữ “Đạo”. Thiên nhiên con người,
vạn vật đều sống cùng chữ Đạo. Người Trung hoa coi “Đất là mẹ”- Tiền đề triết
học sản sinh ra phong thủy. Họ dùng hình tượng nữ âm để tìm huyệt phong thủy.
Huyệt phong thủy là những nơi Âm - Dương tương hợp, sinh khí lành, cỏ cây kết
trái nở hoa.
Vấn đề sex thì có gì lạ. Nhưng sex phải được nhìn
nhận và phô bày bằng tư duy, nghệ thuật, triết học, cùng vẻ đẹp trần thế kết
hợp với yếu tố thiêng liêng và cảm quan vũ trụ. Đó là “Đạo” (là con đường).
Người phương Đông và cả loài người có “Đạo” không chấp nhận sự thô thiển vô
giáo dục. Nếu cộng đồng nào thông thái, nghiêm túc giáo dục sex theo tinh thần
trên, thì sẽ tránh được những cảnh xấu, người xấu và thảm họa sex gây ra…”.
Nhà văn, Nguyễn Nguyên Bảy, ông thày phong thủy
trên đất Sài Gòn xem tranh của cụ Bùi xong luận theo dịch học rằng: “Tranh chữ
của lão ông Bùi Hạnh Cẩn cũng lấy âm dương để chép, để vẽ cuộc đời. Âm dương
trong tranh Bùi Hạnh Cẩn sâu sắc, xán lạn, minh bạch như dịch vậy. Những bức
tranh chữ : “Với Em Nhi Mình, Thế Nhân, Luân Hồi…mang mang như sóng Tràng Giang
phóng lên Dương, và khi đổ xuống, đứt sóng mà thành âm.. Nếu không là người am
tường dịch học và tràn ngập trải nghiệm đời, khó lòng vẽ được những bức tranh
chữ tuyệt chiêu này. Khâm phục, kính trọng và biết ơn lão thi nhân Bùi Hạnh Cẩn
đã tặng cho đời những bức tranh chữ đẹp tĩnh/ động thăm thẳm biến hóa…”.
Đọc xong hai đoạn văn trên tôi thầm reo lên: “Vậy
là mình đã hiểu được phần nào ý tưởng ở nhưng bức tranh khác không phải hỏi cụ
nữa”. Cảm ơn Anh Bảy, chị Thục.
Về thơ, cụ có những bài thơ khá hay thời chúng tôi
khôn lớn ở giai đoạn thập niên 60, thế kỉ 20. Hồi ấy, đám viết lách lèng nhèng
chúng tôi coi cụ là nhà thơ lớn. Thơ của cụ được tuyển chọn in trong nhiều
tuyển tập trên khắp đất nước. Như bài Hẹn dưới đây:
“Hẹn hò nửa phút đơn sai
Tiêu tan hết nhẵn mười hai tháng thề
Thử lần lạc bước cung mê
Người không đến nữa tôi về gặp tôi.”.
(Trích từ tuyển tập thơ Lục Bát Việt
Nam)
Theo chúng tôi nghĩ, nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn phải là
nhà văn hóa lớn của Hà Nội mới đúng nghĩa, đúng với những gì cụ đã đóng góp cho
Hà Nội và nền văn hóa đất nước; đúng với những gì cụ đã đóng góp cho thơ, cống
hiến cho báo chí, cho những công trình nghiên cứu và dịch thuật. Một trăm đầu
sách của cụ hiện có đã nói nên điều này. Với các bút danh: Hạnh, Thôn Vân, Lê
Xung Kích, Kiểm Minh, Thạch Như, Hương Nhu, Ông Lang, cụ đã viết nên các tác
phẩm:
- Hẹn - tập thơ
- Ký sự lên kinh (sưu tầm, dịch thơ văn Hải Thượng
Lãn Ông, 1972)
- Năm đời tổng thống Mỹ (truyện, ký 1973)
- Lê Quý Đôn, (truyện ký, 1984)
- Bà Điểm Họ Đoàn (nghiên cứu, 1987)
- Tục ngũ cách ngôn thế giới (1990)
- Chợ Viềng - Hội Phủ (sưu tầm, khảo cứu, 1993)
- Các ông Nghè ông Công triều Nguyễn (sách tra cứu,
1995)
- Nguyễn Bính và tôi (hồi ký, 1996)- Hồ Xuân Hương
thơ chữ Hán và giai thoại (1999)
- Thăng Long Thi Văn Tuyển (sách biên dịch, 2000)
- Tranh chữ, (2010)
Vậy mà, cho tới nay, cụ chưa được các giải thưởng,
như giải Hồ Chí Minh, giải Nhà Nước để mắt tới? Cụ là hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam ngay từ ngày đầu sáng lập, hội viên Hội Văn Học nghệ thuật Hà Nội, hội viên
Hội Nhà báo. Cụ hoạt động báo chí từ tiền khới nghĩa. Cụ từng làm Tổng
thư kí Hội Văn nghệ Hà Nội, ủy viên thường trực hội nhà báo Việt Nam, giám đốc
nhà xuất bản Hà Nội… Có lần gặp chị Bùi Cửu Trường, một bác sĩ làm thơ, viết
báo - con gái của cụ. Tôi hỏi chị rằng cụ nhà mình được giải thưởng Nhà Nước
hay giải thưởng Hồ Chí Minh? Chị Trường cho hay: “Cứ năm năm một lần Hội Nhà
văn gửi giấy báo tới, bảo bố em làm đơn xin giải. Bố em bảo: “Nếu thấy
mình đáng được thì tổ chức trao cho mình giải xứng đáng với cống hiến. Sao lại
bắt mình tự kể công lênh rồi xin xin xỏ xỏ. Nó thế nào ấy… Mình không làm nổi”.
Mới thấy quy định của nhà nước hơi bị ngặt nghèo
về thủ tục hành chính. Đáng ra, thấy ai đóng góp cho nền văn hóa dân tộc những
tác phẩm chuẩn mực, đủ điều kiện, xứng đáng với giải nào thì hội đồng xét giải
cứ việc làm thủ tục trao cho họ, việc gì phải đơn từ kính thưa ông nọ bà kia mà
gì? Làm cho mhững văn nghệ sĩ khái tính thấy nhục nên họ không cần. Làm đơn
nghĩa là ngửa tay đi xin giải? Chỉ những người hám danh hám tiến mới ngửa tay
làm vậy.