Thứ Tư, 9 tháng 5, 2012

“Ca bình minh" - Một vũ trụ yêu thương

Ca-binh-minh
Ca ba, một ca làm việc ở các nhà máy từ 10h tối hôm trước cho đến 6h sáng hôm sau, người thợ phải thức trắng đêm với công việc do mình phụ trách. Làm ca ba là một ca vừa mệt vừa tốn hao sức khỏe.



Khi tan ca ra về đôi chân người thợ bâng lâng như bước trên mây, mắt lờ đờ vì thiếu ngủ, tai ù ù tiếng gió, tiếng ve mà người thợ - nhà thơ của chúng ta cảm hứng ca ba thành Ca Bình Minh? Một tứ thơ lung linh vẻ đẹp, ngời ngời sức sống, cũng là một phát hiện đậm chất thi ca, thăng hoa thi tứ. Bầu trời lúc bốn rưỡi, năm giờ sáng là lúc vầng dương bừng tỏa, trời hừng đông đón chào ngày mới, hy vọng mới với bao điều tốt lành cho mỗi người, mỗi nhà và công việc:

 
-“Khi nói tới ca ba
Ca của những đêm hè trời đầy sao hoa
Ca của những đêm đông bập bùng ánh lửa
Còn em với niềm vui bé nhỏ
Em gọi ca ba là ca bình minh...”

Ca Bình Minh là tập thơ chở cả một vũ trụ yêu thương ngan ngát lời, khơi gợi ý: "Con gà đẻ một trái hồng/ Còn bao trái chín ở trong cuộc đời/Ôi sao cả đến nụ cười/ Vào thơ em cũng hóa lời yêu thương... " (Trái Hồng). Lời yêu thương được  lập trình đầy đặn từ tình yêu lứa đôi, tình yêu thương đối với mẹ cha, anh chị em, cộng đồng nơi Xóm Nhỏ có bà bán trầu cau, bác thợ điện, anh thợ kính, chị tráng bánh đa nem; nơi Ngã Ba “Lối nào cũng dẫn đôi ta trùng phùng”, cả cô Kiều bạc mệnh thời nào cũng có; dòng sông có con đò dìm tắt «năm mươi cuốc sống»… thậm chí vũ trụ tình yêu thương ấy dành cho cả «kẻ thù» được chị vẽ bằng trí tưởng tượng khá thành công trong bài Thư Gửi Người Bạn Gái Mỹ, theo nhà văn Mai Thục: Là bài thơ mang tính dự báo chính xác về mối quan hệ Việt - Mỹ đầu thế kỷ 21 mà chúng ta đã chứng kiến sau một khúc loanh quanh của lịch sử. Lịch sử cứ thích trêu ngươi vòng vo ba bốn chục năm "máu lửa"(1) mới tới được đích cuối cùng điểm đỗ:“Nếu bạn và cậu Gôn đến chơi nhà mình/ Chắc chắn được đón là khách quý/ Cậu Phát em mình dang đôi tay võ sĩ/ Ôm chầm lấy cậu Giôn…”  
Vũ trụ yêu thương ăm ắp đến chân tình ấy còn dành cho một người: Đó là nhà báo - nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy. Hai tâm hồn thơ đồng dòng tâm tư nắm chặt tay đi bên nhau suốt cuộc đời từ Bắc vào Nam trong cuộc mưu sinh của gia đình, gian nan nhưng hoàn thiện cuộc sống, toàn mỹ tinh thần viên mãn hạnh phúc. Ngay bài thơ đầu tiên, bài Tặng Tình đã cảm hóa ngay người đọc: 

-“Ai làm cầu bắc qua sông
 Cho bờ em lại phải lòng bờ anh
 Ai cho chim cả trời xanh
Để đồng tiếng hát trên cành yêu thương...”
 Và:
-“ Lòng em như cốc nước
 Cốc nước đầy để trên bàn nhỏ
 Cuộc địa chân yêu rung từng nhịp thở
 Sóng sánh nước tràn ra”
                                           (Đôi Ta)

Ca Bình Minh gồm 46 bài, Kẻ viết những dòng này thử vuốt râu thày phong thủy Nguyễn Nguyên Bảy, người chồng biệt nhân liên tài của Lý Phương Liên. Xin thày Bảy đánh chữ đại xá, cho được “bói mò» một “quẻ” đầu năm lấy… tí hên. Con số 46: 4 + 6 = 10; sắp xếp theo năm Can Chi của tử vi... chính thày Bảy soạn ở trang web phongthuynnb.com: Thế kỷ 20, có hai năm Canh Tuất, năm 1910 và năm 1970, đó là sáu mươi năm chu kỳ của một đời người. Năm 1970 (Canh Tuất), năm Lý Phương Liên phát tiết tài thơ cưỡi lên cổ thứ thơ cổ vũ phong trào bị nàng thơ đánh ghen làm hệ lụy đến cả gia đình. Bức xức với sự đời «đổi trắng thay đen» chị “chít trắng tang mây” xa lánh thơ 40 năm. Nhưng thơ chị đã làm rung động cảm xúc mấy thế hệ bạn đọc ngày ấy. Những người tuổi từ 60 – 90 từng là nhà giáo, sinh viên, bộ đội, công nhân hầu như đều đọc, thuộc bài Ca Bình Minh, Lời Ru Với Anh, Ngã Ba... trong lúc cuốc sống thời chiến chẳng dư dả gì, lấy thơ nâng đỡ tinh thần để làm việc và chiến đấu. Ngay buối tối ngày mùng 7 Tết Tân Mão, trong buổi gặp gỡ lần thứ hai, hai thi sĩ và cô con gái cưng của hai người, họa sỹ trẻ Nguyễn Lý phương Ngọc cùng chúng tôi đang ngồi đọc cho nhau nghe những bài thơ phải đi mấy chục năm đường vòng để trở lại với người yêu thơ Hà Nội nghìn năm văn hiến tại quán cafe CLB Văn hóa Thanh niên hồ Thiền Quang thì một đoàn khách chừng sáu, bảy người, trong đó có cả người nước ngoài vào quán để ăn tối. Nhà thơ Bích Ngọc, phu nhân của đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn gặp một người quen, chị chào người quen của mình và giới thiệu:
- Giới thiệu với giáo sư Hải Kế đây là nhà thơ Lý Phương Liên.
GS. Hải Kế ồ lên một tiếng rõ dài rồi anh tách khỏi đám bạn
của mình đi đến, phấn khởi reo to:
May quá, xin được bắt tay nhà thơ. Lần đầu tiên được bắt tay nhà thơ Ly Phương Liên... Sau cái bắt tay, nhà sử học Hải Kế đứng đọc từ đầu đến cuối bài Ca Binh Minh. Lúc đó tôi đang mở sẵn trang thơ có bài Ca Bình Minh để trước mặt nên đọc nhẩm theo, thấy nhà giáo Hải Kế đọc không thừa một chữ, sai một câu. Nữ văn sỹ Mai Thục nắm chặt hai bàn tay Lý Phương Liên lắc mạnh, bảo:
- Liên thấy chưa, nhiều người thuộc thơ mình thế mà mình thì đi ở ẩn để lánh xa thơ? 

Cô con gái Phương Ngọc nghe vị giáo sư đọc thuộc lòng thơ của mẹ Liên, cô ôm lấy cánh tay của mẹ cụi cụi trán mình vào bờ vai mẹ âu yếm, ngạc nhiên, ngỡ ngàng. Thi sỹ Nguyễn Nguyên Bảy đang giải quẻ kinh dịch cho một chị từ CHLB Đức về nhà ăn Tết cũng dừng lại, mở túi lấy tập thơ đưa cho vợ đề tặng GS Hải Kế. Cuôc gặp gỡ không hẹn mà nên mang lại những tiếng cười giòn giã, tiếng cụng ly, tiếng chúc sức khỏe nhau tràn vang hai bàn tiệc xuân. Là người yêu thơ, thỉnh thoảng tôi cũng tập tọng làm thơ để chống troét (tress). Thật sự bất ngờ về một hiện tượng thơ bị “bão mưa ganh ghét” 40 năm vẫn còn nguyên cả bài thơ găm bền chắc trong trí nhớ bạn đọc giữa cuốc sống xô bồ hôm nay. Một điều hiếm thấy? 

Cách nhìn, cách cảm trong thơ Lý Phương Liên vừa dung dị, có phần ngây thơ trước cuộc sống gian khó trong những năm chiến tranh, mọi đề tài chị viết cứ xanh mơ, trong veo trong từng cảm xúc:
- “Thật lòng em rất sợ mùa dông
 Cảnh nghèo tìm đâu ra chăn lửa
 Sợ quá hiều rồi nên không sợ nữa
Thương anh gày yếu của em ơi…”
                     (Xa nhau mùa đông).

- “ Đã mơ hai chữ tình yêu
Cớ sao đám cưới tình yêu lại nghèo?”
                       (Đám cưới tình yêu)
- «Vào nhà em
Mùa đông phải mặc áo ấm
Mùa hè quạt cả mồ hôi sang quạt...» 
                           (Nhà Em)

Và những câu mang mang hơi thở phập phồng của phố phường thời chiến. Ga Hàng Cỏ, một sân ga nổi tiếng của thủ đô những năm 70 thế kỷ trước hằng đêm tấp nập những cuộc tiễn đưa:
-“ Đêm ca ba đi dọc đường Nam Bộ
Tay vẫy chào những đoàn tầu rời ga Hàng Cỏ
Đưa bộ đội lên đường
Các anh đi suốt ca ba thẳng tới chiến trường…”
        Về người ở lại hậu phương:
 - «Em đi làm trong râm mát hàng cây
    Hố cá nhân chở che như tình bạn
        Giặc Mỹ rượt theo em bằng bom đạn
        Em đi đường bờ sông
        Chúng ném bom bờ sông
        Em đi đường Phố Huế
        Đạn bắn vào Phố Huế
Em vẫn đi ngày bốn buổi chuyên cần...»
                   (Em vẫn sống như hồi còn mẹ)

Từ chiến trường trở về tôi vẫn giữ được cuốn sổ có chép ba bài thơ: Lời Ru Với Anh, Ca Bình Minh và Em Mơ Có Một Phiên Tòa chép trên báo ND trước đó mấy năm đem đi hỏi bạn bè về tác giả Lý Phương Liên, thấy ai cũng nhìn trước nhìn sau im lặng tảng lờ chẳng dám nhận mình đã đọc thơ Lý Phương Liên, mặc dầu họ đều là những người làm nghề chữ nghĩa, viết lách, thèm thơ như thèm lĩnh tiền nhuận bút, cuốn sổ gạo, ô phiếu thịt...! Mãi đến đầu những năm 1980, trong một lần xếp hàng mua bia hơi ở «chuồng cọp» Trại Găng quãng giữa phố Bạch Mai, gặp một bạn học cũ, anh cho biết chùm thơ ba bài in trên báo ND là do nhà báo Nguyễn Nguyên Bảy đến chơi nhà Lý Phương Liên, thấy em Lý Phương Liên đem cuốn vở học trò định xé ra nhóm bếp. Do tò mò nghề báo, Nguyễn Nguyên Bảy cầm xem thấy trong cuốn vở đó là những bài thơ, anh cầm về đọc thử, thấy hay nên gửi cho báo ND và họ đăng, sau hai người nên vợ nên chồng, rồi những hệ lụy cũng xảy đến với họ, họ phải trải qua những thử thách khắc nghiệt, đắng cay, gia đình họ phiêu dạt đi đâu không rõ... (thông tin trên chính xác bao nhiêu phần trăm tôi chưa kịp hỏi lại nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy). 

Khi Lý Phương Liên hào hứng viết những vần thơ tràn trề yêu thương con người bằng một bản ngã trung thực, thành tâm của một tấm lòng nhân ái thuở ban đầu thì được khen nức nở. Nhưng, khi chị chỉ ra cái khối mâu thuẫn hiện tại của xã hội... biết mà không ai dám nói: «Trái đất chúng mình cho đến hôm nay/ Vẫn còn những cuộc đời như nàng chìm nổi/ Thời gian còn nửa ngày là đêm tối/ Còn đồng tiền đổi trắng thay đen/ Còn sắc tài bạc mệnh với hơn ghen/ Còn những Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến... » (Trò chuyện với Thúy Kiều) lập tức bị chì chiết là «đâm dao vào lưng chế độ»?! Thật không công bằng chút nào. Chẳng trách nhà văn Nguyễn Khải có lần tâm sự: «Sách tôi in ra hay có chuyện, nhưng bao giờ tôi cũng im lặng. Không cãi. Có lúc một đảng bộ địa phương còn cho tôi là hậu «Nhân văn Giai phẩm», tôi cũng im lặng. Một số bài báo của tôi viết năm 1974 cũng bị xem là xỏ xiên tiêu cực, tôi cũng không lên tiếng...» (Thể thao & văn hóa số 57 (1566) ngày 16 – 7 – 2004).  

Trong lúc nâng cốc chúc năm mới, chúc sức khỏe nhau tôi khen cái cơ ngơi «tiền tấn» của gia đình anh. Nguyên Nguyên Bảy rủ rỉ, chẳng biết anh nói thật hay nói cho vui: - «Chính các bạn mới là người sung sướng, còn vợ chồng tôi chả có quê hương gì ráo! » - Và anh giải thích: -«Hà Nội, nơi mình sinh ra thì mình không có nhà, quê cha đất tổ không còn ruộng đất; ở trong Nam thì họ coi mình là dân Bắc Kỳ ngụ cư! Nói chung mình bị cô Hai đẩy ra, anh Cả đẩy vào» - Anh nói với giọng nghèn nghẹn buồn buồn. Lý Phương Liên nghe ông chồng tâm sự với mọi người vậy, chị nhíu mày im lặng. Chắc trong đầu chị đang nảy ra một tứ thơ mới. 

Mong rằng sau tập Ca Bình Minh, nữ sỹ sẽ tiếp tục chào bạn thơ Hà Nội, bạn thơ Sài Gòn những sáng tác khác của chị sau "tai nạn" Nghĩ Về Thúy Kiều (Trò Chuyện Với Thúy Kiều) từ 1971 tới nay. Hy vọng...  
XEM BÀI TRƯỚC XEM BÀI SAU TRANG CHỦ