12. chơi chữ trong dân gian:
-Bà già đi
chợ cầu Ðông
Muốn xem quẻ
bói lấy chồng lợi chăng?
Thày bói,
gieo quẻ nói rằng:
Lợi thì có lợi mà răng
chẳng còn.
(Ca dao)
- Môi chẳng
ra môi còn bẻm mép.
- Con ruồi
đậu mâm xôi đậu.
- Ngựa về
đường bể chạy long tong.
- Con cóc leo
cây vọng cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già.
- Ði trên đất
thịt đường trơn như mỡ.
Dao cắt lòng,
lòng đau như dao cắt.
- Hòn đất mà
biết nói năng
Thì thày địa
lý hàm răng chẳng còn.
-Trăng bao
nhiêu tuổi trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non?
Chơi chữ đồng âm trong thơ hiện đại:
-Tạm biệt đời ta yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ. Một nắm tro
Thơ gửi bạn đường. Tro
bón đất
Sống là cho. chết cũng là cho.
(Tố Hữu)
HOÀNG XUÂN HỌA
Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
13. Chơi chữ trong câu đối, trong thơ.
*Trong câu
đối:
Ðôi câu đối chửi
tên quan tham nhũng Từ Ðạm:
- Kiếp trước
mơ màng con đĩ Ðạm
- Ðời sau gặp
gỡ bố cu Từ (Ðạm Tiên - Từ Hải).
- Phên đan
mắt cáo mèo chui lọt
Nghé lội ao sen ngó nổi lên.
(KD)
- Mặc áo giáp, dải cài chữ đinh; mậu, kỷ,
canh khoe mình rằng quý
- Làm đĩ càn, tai đeo hạt khảm; tốn, ly, đoài
khéo nói rằng khôn.
(Câu đối của Hồ Xuân Hương).
* Chơi chữ
trong thơ:
Ðền ngọc sơn (đọc xuôi)
Linh uy nổi
tiếng thật là đây
Nước chắn, hoa
rào một khoá mây.
Xanh biếc, nước
soi hồ lộng bóng,
Tím bầm rêu mọc
đá tròn xoay...
Canh tàn lúc
đánh chuông âm tiếng
Khách vắng khi
đưa, xạ ngát bay...
Thành thị tiếng
vang dồn thích thú,
Rành rành nọ bút
với nghiên này.
Ðền ngọc sơn (đọc ngược)
Này nghiên
với bút nọ rành rành
Thú thích dồn
vang tiếng thị thành.
Bay ngát xạ
đưa khi vắng khách,
Tiếng âm
chuông đánh lúc tàn canh.
Xoay tròn đá
mọc rêu bầm tím,
Bóng lộng hồ
soi nước biếc xanh.
Mây khoá một
rào hoa chắn nước
Ðây là thật
tiếng nổi uy linh.
(Tình Sĩ Tử)
Mừng Cháu đích tôn tròn một
tuổi
Ðích đích tôn
tôn trọn tuổi rồi
Ông ông cháu
cháu nụ cười tươi
Già già trẻ
trẻ cùng sung sướng
Tháng tháng
năm năm thật tuyệt vời
Mẹ mẹ cha cha cùng phấn khởi
Hàng hàng xóm
xóm cũng sang chơi
Mong mong mỏi
mỏi mau khôn lớn
Óc óc tim tim
dựng cuộc đời.
(Lê Bầu)
Bài “Ðền ngọc
sơn” tác giả xoay tiếng “này” lên đứng đầu và cứ thế cuốn chiếu đọc ngược lại
vẫn đủ ý tứ. Bài sau của Lê Bầu nếu bỏ những từ láy đi thì chỉ là bài thơ 5
chữ. Mới thấy chơi chữ, “chơi” thơ cũng lắm công phu.
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
14. Cách nói quá sự thực.
* Ngoa dụ:
Một thủ pháp
nghệ thuật dựa trên cơ sở phóng đại, cường điệu khi miêu tả:
- Lỗ mũi mười tám gánh lông
Chồng yêu,
chồng bảo tơ hồng trời cho...
- Con rận
bằng con ba ba
Ðêm nằm nó
ngáy cả nhà thất kinh...
(Ca dao)
* Nghịch lí:
Trong sáng tác
văn học, nghịch lí là những điều miêu tả trái với lẽ thường, một biện pháp gây
ấn tượng bất ngờ, phi thực:
- Con chuột
kéo cày lồi lồi
Con trâu bốc
gạo vào ngồi trong cong...
- Hùm nằm cho
lợn liếm lông
Một chục quả
hồng nuốt lão tám mươi...
-Thóc giống
cắn chuột trong bồ
Một trăm lá
mạ đuổi vồ con trâu...
(Ca dao)
* Ẩn dụ: Nói cái này lại ám chỉ cái kia:
- Hôm qua em
mất váy thâm
Hôm nay lại
thấy anh cầm ô đen!...
(Ca dao)
-Anh đến vườn
hoa thì hoa đã nở
Anh đến bến
đò thì đò đã qua sông.
(Dân ca Nghệ An)
- Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay.
- Rúc rích
thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ
cái ong bầu.
(Hồ Xuân Hương)
-Hang hùm ví
bẵng không ai mó
Sao có hùm
con bỗng chốc tay.
(Chiêu Hổ)
Ði Câu
Thừa nhàn lắm
lúc tớ đi câu,
Biết cả các
loài ở cạn sâu:
Lũ bống xơi
ngầm im phăng phắc,
Ðàn mương ăn
bẩn đến nhâu nhâu.
No mồm chú
ếch ngồi phùng má,
Ðói bụng cu
lươn rúc lấm đầu.
Mồi mắc bởi
chưng ăn xộp quá
Không tham
chưa dễ hại gì đâu.
(K.D.)
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
15. Khoán thủ.
Tất cả các tiếng ở đầu mỗi câu thơ
khi đọc xuôi xuống đều mang một ý nghĩa mà nhà thơ đã định sẵn như một dòng tên
người, một câu khẩu hiệu, một câu châm ngôn hoặc một câu nói nổi tiếng.
Thập kỷ 60 thế kỷ 20, Bắc – Nam tạm thời bị chia cắt bằng con sông Bến Hải do Hiệp
định đình chiến Genève. Từ bờ nam sông Bến Hải trở vào do chính phủ
Việt Nam Công Hòa của Ngô Ðình Diệm cai trị. Nhân dân miền Nam vẫn hướng về
miền Bắc, bằng cách bảo nhau cùng treo bức tranh “Ông già câu cá” của một nghệ
sĩ dân gian có đề bài thơ tứ tuyệt như sau:
- Cụ già thong
thả buông cần trúc
Hồ rộng thênh thang mặt
nước bằng
Muôn vạn đài sen đua lóng lánh
Tuổi già vui thú với non sông.
Một tên mật vụ có chút hiểu biết về thơ phú phát hiện ra, y báo cấp trên
của y ra lệnh tịch thu và cấm nhân dân treo bức tranh và bài thơ trên. Bức
tranh bị cấm nhưng 4 câu thơ thì đã đi vào lòng người.
Còn nhiều bài thơ chơi chữ theo lối khoán thủ khác. Xin giới thiệu
thêm bài thể Ðường luật:
Gửi Bạn
Nhất sinh tôi bác biết nhau rồi,
Ðịnh đoạt hơn thua phó mặc trời.
Chúng mải công danh ky cóp chạy,
Ta nhìn mây nước nhẹ nhàng trôi.
Theo quan, ngán bấy câu chè lá!
Về xã, buồn thay cảnh thịt xôi.
Lê gậy theo trăng vào quán trọ,
Ninh trà, nạp thuốc, chuốc nhau chơi!
(Quả Ngôn, một nhà nho
trước 1945).
Bỏ âm h ở từ Ninh đi, đó là chữ
Nin: “Nhất định chúng ta theo về Lê Nin”.
(Tiếng Trung Quốc phiên âm tên lãnh tụ Lê Nin là Lệ Ninh).
16. Một hình thức thơ độc đáo khác, dạng tạo mô
hình.
Kiểu trình bày bài thơ “hình phễu” của nữ sĩ Ngân Giang thật lạ. Bà sử dụng
vần a: “gà, pha, hà, nga, hoà, ta” xuyên suốt bài thơ một cách tài tình,
các dòng thơ dưới dần ngắn lại xếp thành “lục - nhất lệch”:
Ðường về tre xanh
rợp lối
Suối
khe văng vẳng canh gà
Tình thương dài sử sách
Ngọc đá cũng phôi pha
Niềm tin
bất diệt
Gắn bó sơn
hà
Như Ðường nga
Tâm huyết
Chan hoà
Bạn
Ta
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
Lệnh Hồ Sở, tể
tướng thời nhà Ðường, ông là bạn thân của Bạch Cư Dị. Lệnh Hồ Sở trình bày một
lối thơ “hình tháp, cũng là một kiểu chơi chữ “nhất - thất lệch. Mới
biết “chơi” thơ cũng lắm công phu (dẫn theo Phan Văn Các):
Non
Chất ngất
Chon
von
Xanh biển biếc
Bạc mây
vờn
Thương lão sâu ẩn
Tạ công
xa vườn
Ðá xưa
khe róc rách
Thung vắng, chim ríu ran
Rừng rậm
chạy dài ải lũng
Vượn
kêu thấu suốt Kinh man
Người tục chết già trong gấu váy
Hươu
nai tận hưởng
cỏ hoa thơm
(Phan Văn Các dịch)
Chịu ảnh hưởng
từ những phương pháp ngoa dụ, nghịch lí, ẩn dụ, chơi chữ trong ca dao dân gian,
nhiều nhà thơ nửa cuối thế kỷ 20 đã sáng tác được những câu thơ khá hay cho nền
thơ Việt Nam :
-Trời thì
xanh như rút ruột mà xanh
Cây thì biếc
như vặn mình mà biếc.
(Thi Hoàng)
- Ðừng buông
giọt mắt xuống sông
Anh về, dẫu
chỉ đò không cũng chìm...
(Ðồng Ðức Bốn)
- Muốn trèo
lên nắng mà đi
Muốn đu lên
gió mà về với nhau...
(Ðỗ Trọng Khơi)
- Gió không
phải roi mà vách núi phải mòn
Em không phải
chiều mà nhuộm anh đến tím...
(Hữu Thỉnh)
- Ðường số
một chạy dài theo biển
Biển mệt
nhoài nằm thở ở Nha trang
(Hữu Thỉnh)
- Mẹ mượn Ðèo
Ngang buộc một đầu guốc võng
Cột gỗ nhà
ta, một đầu võng kẽo cà...
(Nguyễn Hữu Quý)
- Giọt chuông
Thiên Mụ rơi thầm
Ðưa đây nỗi
nhớ anh cầm, Huế ơi...
(Trương Nam
Hương).
HOÀNG
XUÂN HỌA Giới thiệu các luật thơ- thể thơ- cách làm thơ
- Sông Hương
hoá rượu cho anh uống
Tất cả đền
đài nghiêng ngả say
(Nguyễn Trọng
Tạo)
(Còn tiếp)